I. Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI (2001-2010)
1.1. Tổ chức nghiên cứu xây dựng Chiến lược
Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và các tiểu ban văn kiện chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ IX; Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cùng với các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cùng với hệ thống các viện nghiên cứu, các trường đại học triển khai tổ chức nghiên cứu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI - Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
1.2. Nội dung cơ bản của Chiến lược
Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (20012010) được Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) thông qua với mục tiêu tổng quát là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học - công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
Đại hội lần thứ IX đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 với nhiều nhiệm vụ được đặt ra trong 10 năm đầu thế kỷ XXI là bước phát triển cao hơn so với Chiến lược 10 năm trước đó (1991-2000) với khẳng định nhiệm vụ trọng tâm là “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” và được cụ thể hóa trong Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005. Như vậy, từ bước mới bắt đầu nhận thức hai mệnh đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì bây giờ quan điểm về nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển mới của nước ta đã là “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Đại hội lần thứ IX là kỳ Đại hội đánh dấu nhiều nhận thức mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phản ánh sự tiến triển nhận thức về mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo cơ chế thị trường và cũng là điều kiện để thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ này. Đó là:
Thừa nhận “kinh tế tri thức”, coi “từng bước phát triển kinh tế tri thức” là một phương hướng và nhiệm vụ phát triển quan trọng. Về thực chất, Đảng coi “phát triển kinh tế tri thức” là một nội dung mới, nhiệm vụ chính thức của chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta. Đây là bước phát triển vượt bậc trong tư duy phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa so với các Đại hội trước.
Chủ trương thực hiện “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”. Đây là lần đầu tiên tư tưởng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1991) phát triển thành quan niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn (2001) hay “công nghiệp hóa, rút ngắn theo hướng hiện đại” được chính thức nêu trong văn kiện Đại hội. Đại hội cũng coi đây là phương thức khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Đây là một sự bổ sung mang tính sáng tạo vào nhận thức lý luận về công nghiệp hóa trong điều kiện hiện đại.
1.3. Triển khai thực hiện Chiến lược
Mục tiêu của Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) đã được quán triệt ở tất cả các ngành, các cấp trong quá trình nghiên cứu, xây dựng kế hoạch 5 năm 2001-2005 và 2006-2010.
(1) Trong quá trình tổ chức triển khai nghiên cứu kế hoạch, ngày 19/9/2000 Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 16/2000/CT-TTg về xây dựng Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, với tư tưởng chỉ đạo: (i) Đổi mới toàn diện và đồng bộ về cơ chế, chính sách kinh tế - xã hội; (ii) Phát triển nhanh chóng khoa học và công nghệ cùng với việc đưa nhanh các tiến bộ khoa học và công nghệ vào phát triển các ngành, các lĩnh vực; (iii) Hình thành và mở rộng các loại thị trường trong nước và ngoài nước, đặc biệt là thị trường vốn; (iv) Có bước tiến lớn về cải cách hành chính trên bốn nội dung: xây dựng thể chế, sắp xếp bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ và tăng cường quản lý chi tiêu công.
Trên tinh thần đó, các bộ, ngành, các tổng công ty và các địa phương đã tổ chức nghiên cứu, cập nhật tình hình, tập trung đánh giá những mặt làm được và chưa làm được của kế hoạch 5 năm trước; rà soát các tính toán, dự báo, các căn cứ của kế hoạch; bám sát hơn tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu và các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong 5 năm tới để xây dựng kế hoạch. Hầu hết các kế hoạch 5 năm ở các tỉnh, thành phố, các bộ, ngành đã được thông qua tại Đại hội Đảng ở các cấp tương ứng.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổng hợp, tổ chức nghiên cứu, hoàn chỉnh báo cáo “Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005” và được Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) thông qua với mục tiêu là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”.
(1) Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010, chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ngày 23/9/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị số 33/2004/CT-TTg về việc xây dựng Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các ngành, các cấp trong quá trình nghiên cứu xây dựng Kế hoạch 2006-2010 cần đặt lên hàng đầu chất lượng của sự phát triển: tăng trưởng kinh tế nhanh với hiệu quả và sức cạnh tranh cao; bảo đảm cân đối kinh tế vĩ mô; phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, đầu tư nhiều hơn cho phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đẩy lùi các tệ nạn xã hội; bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Kế hoạch 5 năm phải cụ thể hoá đầy đủ các mục tiêu được xác định trong các chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực, chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo; chiến lược phát triển bền vững; các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam và các cam kết của Việt Nam với quốc tế.
Theo chỉ thị của Thủ tướng chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bước đầu đã dự thảo Khung Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, với mục tiêu tổng quát là: “Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia”.
II. Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020
2.1. Tổ chức nghiên cứu xây dựng Chiến lược
Bối cảnh trong nước khi xây dựng Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 là “Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều, năm 2008, GDP bình quân đầu người của nước ta đã đạt 1.044 USD - được xếp vào nhóm nước có thu nhập trung bình thấp; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”.
Song bên cạnh đó cũng còn những hạn chế nhất định, Đảng đã nhìn nhận thẳng thẳn khi đánh giá “Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng” là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Cụ thể hơn đối với các yếu tố để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì: “Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ”. Ngoài ra, vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
Dưới sự chỉ đạo của Tiểu ban xây dựng báo cáo kinh tế - xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thành lập Văn phòng hành chính giúp việc Tiểu ban và Tổ biên tập và đã phối hợp với các thành viên Tiểu ban, thành viên Tổ Biên tập cùng với các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cùng với hệ thống các viện nghiên cứu,... tổ chức nghiên cứu Chiến lược 10 năm 2011-2020 - “Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
2.2. Nội dung cơ bản của Chiến lược
Nhận thức lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ này được đặt trong bối cảnh thế và lực của nước ta đã được nâng lên, do đó đã đến lúc nước ta phấn đấu để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào năm 2020. (1) Chiến lược 2011-2020 đã nhận thức được một số vấn đề để đổi mới tư duy và định hướng phát triển trong thời gian tới:
- Về phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phải thực hiện đổi mới toàn diện và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội với lộ trình và bước đi thích hợp, tập trung vào mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật kỷ cương, nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ và phát huy sức sáng tạo của mình.
- Về đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng, hài hòa mối quan hệ giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, đề cao yếu tố năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.
- Về bảo đảm độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước. Phải xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc để bảo đảm ổn định chính trị - xã hội ngày càng vững chắc. Đồng thời, phải thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân, thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Trong quan hệ đối ngoại, phải tích cực, chủ động, không trông chờ vào yếu tố bên ngoài một cách thụ động; phải tạo điều kiện trong nước, chuẩn bị sẵn sàng cho hội nhập, chủ động đề xuất hình thức phối hợp, hợp tác với thế giới và khu vực.
- Về bảo đảm gắn kết chặt chẽ, hiệu quả giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Phải xây dựng cho được thiết chế thích hợp tạo sự gắn kết và phát huy cao nhất hiệu quả của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ để tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý điều hành tổ chức thực hiện của Nhà nước và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, nhất là dân chủ trực tiếp.
(2) Cho đến nay, Đảng ta đã xây dựng và thực hiện hai chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm. Thực hiện thành công Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 1991-2000 đã đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tiếp đến, việc thực hiện thành công Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 đã đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Do vậy, Đại hội Đảng lần thứ XI quyết định chủ đề của Chiến lược 10 năm 2011-2020 là: “Chiến lược tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược cũng được xác định là: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.
2.3. Triển khai thực hiện Chiến lược
Thực hiện Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành để triển khai nghiên cứu và thực hiện một số nhiệm vụ và đã được Ban Chấp hành Trung ương và Chính phủ phê duyệt:
(1) Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ đạo xây dựng và ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 16/01/2012 về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020;
(2) Chính phủ ban hành Nghị quyết số 10/NQ-CP, ngày 24/4/2012 về Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011-2015;
(3) Đảng và Chính phủ đã chỉ đạo nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp, sửa các luật có liên quan đến tạo lập môi trường kinh doanh, trong đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thành xây dựng Luật Đầu tư công và đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII.
(4) Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch Phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020 tại Quyết định số 1216/QĐ-TTg, ngày 22/07/2011.
(5) Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 339/ QĐ-TTg ngày 19/02/2013 phê duyệt “Đề án Tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020”…
KẾ HOẠCH 5 NĂM 2001-2005:
Giữa năm 1998, song song với việc nghiên cứu Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001-2010), Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiến hành tổ chức nghiên cứu phương hướng, nhiệm vụ Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 7 (2001-2005). Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 16/2000/CT-TTg ngày 19/9/2000 về xây dựng Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001- 2005 và Chỉ thị số 26/2000/CT-TTg ngày 13/12/2000 về nâng cao chất lượng xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 của các bộ, ngành, địa phương.
Trong giai đoạn này, công tác kế hoạch hoá được đổi mới theo hướng nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã quán triệt tư tưởng chỉ đạo trong việc nghiên cứu xây dựng Kế hoạch 5 năm 2001-2005 trong toàn ngành; tập trung tổ chức nghiên cứu, đề xuất những giải pháp tạo ra động lực phát triển mới, bước đột phá mới, với một số vấn đề cụ thể như: Qua 5 năm 2001-2005, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối chủ yếu đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu đầu tư đã có sự chuyển dịch tích cực, tập trung hơn cho những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế và kinh tế đối ngoại có bước tiến mới quan trọng. Chất lượng nguồn nhân lực có bước chuyển biến; khoa học và công nghệ , văn hoá - xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, chỉ số phát triển con người được nâng lên. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, quan hệ chính trị đối ngoại được mở rộng tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững hơn.
KẾ HOẠCH 5 NĂM 2006-2010:
Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 - chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tập trung nghiên cứu, tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá, đẩy mạnh tham vấn trong quá trình lập kế hoạch để tạo sự đồng thuận cao về mục tiêu kế hoạch cũng như trong quá trình thực hiện kế hoạch. Một Một trong những đổi mới trong công tác kế hoạch hoá thời kỳ này là nội dung kế hoạch được xây dựng dựa trên cả 3 trụ cột là kinh tế, xã hội và môi trường. Trong kỳ kế hoạch này, công tác theo dõi và đánh giá kế hoạch đã bước đầu đổi mới sang theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả với việc ban hành Khung theo dõi và đánh giá dựa trên kết quả tình hình thực hiện Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 -2010. Đối với quản lý vốn đầu tư phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 210/2006/QĐ-TTg ngày 12/9/2006 về các nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ chi đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2007-2010. Qua 5 năm 2006-2010, nền kinh tế đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đời sống nhân dân được cải thiện; các lĩnh vực văn hóa, xã hội có tiến bộ. Công tác dân số và bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đạt được nhiều kết quả tích cực. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được quan tâm hơn và có mặt được cải thiện.
KẾ HOẠCH 5 NĂM 2011-2015:
Kế hoạch 2011-2015 được xây dựng trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều mặt thuận lợi nên nhiều chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội đề ra cho 5 năm 2011 - 2015 là khá cao. Tuy nhiên, khi bước vào thực hiện kế hoạch, tình hình kinh tế, chính trị thế giới trở nên phức tạp, tác động không thuận tới nền kinh tế nước ta. Trong giai đoạn này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tập trung tham mưu tổng hợp về xây dựng cơ chế, chính sách, trình Chính phủ kịp thời chỉ đạo, điều hành các cân đối lớn của nền kinh tế. Soạn thảo nhiều đề án, báo cáo quan trọng góp phần đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, xây dựng các chính sách góp phần kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bộ đã chủ động nghiên cứu và thẳng thắn kiến nghị với Ban chấp hành Trung ương, Quốc hội, Chính phủ điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong Kế hoạch 5 năm 2011-2015 và hàng năm phù hợp với tình hình thực tế, nhằm bảo đảm ổn định về kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội. Bộ đã nghiên cứu trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 04/02/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Đồng thời đã đề xuất, cảnh báo sớm về tình trạng khó khăn của doanh nghiệp khi thực hiện chính sách tiền tệ, tín dụng thắt chặt. Đây là cơ sở để Chính phủ ban hành Nghị quyết về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu.
Trong kỳ kế hoạch này, Bộ đã tập trung nghiên cứu, cụ thể hoá và từng bước triển khai thực hiện ba đột phá chiến lược theo Nghị quyết Đại hội XI về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ; Chiến lược Tăng trưởng xanh; Chiến lược Phát triển bền vững... Tập trung nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các cơ chế chính sách trong tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu đầu tư công, quản lý điều hành các chương trình mục tiêu quốc gia, quản lý vốn ODA, đầu tư trực tiếp nước ngoài, quản lý đấu thầu, quản lý khu kinh tế, phát triển doanh nghiệp, phát triển kinh tế tập thể, khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn,...
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tập trung nghiên cứu, rà soát, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi và thông qua nhiều đạo luật quan trọng để hoàn thiện thể chế, chính sách trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư. Tập trung nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp quy về công tác quy hoạch; tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch...
Để khắc phục tình trạng bố trí vốn phân tán, dàn trải, nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm thất thoát, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ động đề xuất, xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 và tổ chức thực hiện quyết liệt, qua đó đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Đã tham mưu xây dựng kế hoạch trung hạn về vốn trái phiếu Chính phủ 4 năm 2012-2015 và kế hoạch vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2014-2015. Đây là một bước tiến mới, tạo điều kiện cho các cấp, các ngành chủ động cân đối vốn, quản lý và sử dụng vốn tiết kiệm, hiệu quả, giảm thất thoát, lãng phí. Đồng thời, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ động đề xuất, tham mưu Chính phủ trình Quốc hội Khoá XIII thông qua Luật Đầu tư công tại Kỳ họp thứ 7, tạo cơ sở pháp lý để triển khai xây dựng Kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016-2020. Đây là một trong những giải pháp quan trọng thực hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ trong đổi mới công tác quản lý, sử dụng và tái cơ cấu đầu tư công.
Trải qua chặng đường 70 năm hình thành và phát triển, ngành Kế hoạch và Đầu tư qua từng thời kỳ, với nhiều biến cố của lịch sử; đã gắn bó với vận mệnh Tổ quốc; kế thừa và phát huy được truyền thống của Ngành từ những ngày đầu thành lập; luôn luôn xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng và Nhà nước. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội qua từng thời kỳ đã thực sự là công cụ chủ yếu của Nhà nước để quản lý, điều hành và phát triển kinh tế - xã hội.
Đặc biệt, trong giai đoạn từ năm 1986 đến nay, với vai trò tham mưu tổng hợp cho Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch hoá với vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân được khẳng định là yếu tố không thể thiếu nhằm thực hiện có hiệu quả sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế thị trường, đảm bảo nguồn lực và động lực của tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội./.