Tình hình kinh tế - xã hội 8 tháng năm 2022 của thành phố Hải Phòng
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Hoạt động tài chính, ngân hàng
1.1 Tài chính
Ước tính 8 tháng đầu năm 2022, hoạt động tài chính trên địa bàn thành phố tiếp tục ổn định, thành phố chỉ đạo quản lý thu, chống thất thu, xử lý nợ đọng; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp...
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố tháng 8 năm 2022 ước đạt 7.655,9 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa ước đạt 2.115,6 tỷ đồng; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 5.539 tỷ đồng. Ước 8 tháng/2022 thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố đạt 70.343,6 tỷ đồng, đạt 66,6% dự toán HĐND thành phố giao và bằng 116,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu nội địa đạt 24.750,6 tỷ đồng, đạt 60,4% dự toán HĐND thành phố giao và bằng 119,4% so với cùng kỳ năm trước; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 44.199,5 tỷ đồng, đạt 73,7% dự toán HĐND thành phố giao và bằng 113,9% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính 8 tháng/2022, trong số thu nội địa: thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt 1.892,8 tỷ đồng, đạt 63,7% dự toán HĐND thành phố giao và bằng 107% so với cùng kỳ năm trước; thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3.515,5 tỷ đồng, đạt 77,2% và bằng 119,3%; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 5.480,4 tỷ đồng, đạt 50,2% và bằng 87,8%; thuế thu nhập cá nhân đạt 2.690 tỷ đồng, đạt 81,0% và bằng 119,9%; phí, lệ phí đạt 1.304,6 tỷ đồng, đạt 65,2% và bằng 102%...
Tổng chi ngân sách địa phương tháng 8 năm 2022 ước đạt 2.978,3 tỷ đồng; ước 8 tháng/2022 đạt 15.336,5 tỷ đồng, đạt 42,2% dự toán HĐND thành phố giao và bằng 106,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: tổng chi đầu tư phát triển đạt 7.353,9 tỷ đồng, đạt 40,5% và bằng 114,2%; chi thường xuyên đạt 7.493,5 tỷ đồng đạt 54,4% và bằng 103,5%.
1.2. Ngân hàng
Hoạt động ngân hàng 8 tháng đầu năm 2022 trên địa bàn thành phố tiếp tục đảm bảo an toàn, hiệu quả; mở rộng, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Tỷ lệ nợ xấu ở mức dưới 2% trên tổng dư nợ.
* Công tác huy động vốn
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước thực hiện đến 31/8/2022 đạt 279.903 tỷ đồng, bằng 110,61% so với cùng kỳ năm trước.
Theo loại tiền: Huy động bằng VND ước đạt 264.883 tỷ đồng, bằng 110,85% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 94,63%; ngoại tệ (quy đổi VND) ước đạt 15.019 tỷ đồng, bằng 106,53% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 5,37%.
Theo hình thức huy động: Huy động tiền gửi tiết kiệm ước đạt 165.698 tỷ đồng, bằng 106,77% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 59,2%; tiền gửi thanh toán ước đạt 108.269 tỷ đồng, bằng 117,24% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 38,68%; phát hành giấy tờ có giá ước đạt 5.936 tỷ đồng, bằng 107,65%, chiếm tỷ trọng 2,12%.
* Công tác tín dụng
Tổng dư nợ cho vay đến 31/8/2022 ước đạt 175.434 tỷ đồng, bằng 126,41% so với cùng kỳ năm trước.
Cơ cấu dư nợ theo loại tiền: Cho vay bằng VND ước đạt 166.932 tỷ đồng, bằng 128,03% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 95,15%. Cho vay ngoại tệ (quy đổi VND) ước đạt 8.503 tỷ đồng, bằng 101,15% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 4,85%.
Cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn ước đạt 89.568 tỷ đồng, bằng 130,83% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 51,05%; cho vay trung, dài hạn ước đạt 85.867 tỷ đồng, bằng 122,1% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 48,95%.
2. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Nhu cầu sử dụng điện, nước tăng do thời tiết nắng nóng; giá lương thực, thực phẩm và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu tăng theo giá nguyên liệu đầu vào là những nguyên nhân chủ yếu làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2022 tăng 0,6% so với tháng trước; tăng 4,15% so với tháng 12/2021 và tăng 4,58% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 8 tháng đầu năm 2022, CPI tăng 3,09% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng 0,93% của 8 tháng đầu năm 2021.
So với tháng trước, CPI thành phố Hải Phòng tháng 8/2022 tăng 0,6% (khu vực thành thị tăng 0,49%; khu vực nông thôn tăng 0,73%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 10 nhóm có chỉ số giá tiêu dùng tăng, 01 nhóm hàng có chỉ số giá giảm so với tháng trước.
Trong 10 nhóm hàng có chỉ số giá tăng:
Nhóm hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 1% (tác động làm CPI chung tăng 0,37 điểm phần trăm), trong đó: lương thực tăng 0,55% (tác động làm CPI chung tăng 0,02 điểm phần trăm); thực phẩm tăng 0,99% (tác động làm CPI chung tăng 0,25 điểm phần trăm); ăn uống ngoài gia đình tăng 1,27% (tác động làm CPI chung tăng 0,11 điểm phần trăm).
Nhóm nhà ở, điện nước và vật liệu xây dựng tăng 1,2% (tác động làm CPI chung tăng 0,14 điểm phần trăm) chủ yếu do nhu cầu sử dụng điện, nước tăng cao.
Nhóm giáo dục tăng 6,16% (tác động làm CPI chung tăng 0,33%), chủ yếu do các trường trung cấp, cao đẳng và đại học đồng loạt tăng học phí năm học 2022-2023. Cụ thể, giáo dục sau đại học tăng 30%, hệ cao đẳng tăng 53,51%, giáo giục nghề nghiệp tăng 18,33%; giá văn phòng phẩm và đồ dùng học tập cũng đồng loạt tăng.
Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,28% do giá du lịch trọn gói trong nước tăng 1,84%, giá phòng khách sạn, nhà khách tăng 3,12%; giá cây, hoa cảnh tăng 5,34%; giá dịch vụ chụp, in tráng ảnh tăng 1,82%.
Trong 01 nhóm hàng có chỉ số giá giảm:
Nhóm giao thông giảm 5,14% (làm CPI chung giảm 0,45 điểm phần trăm), do ảnh hưởng của giá xăng dầu từ đầu tháng 7 đến ngày 11/8/2022 đã giảm liên tiếp 5 lần. Bình quân tháng 8/2022, giá xăng A95 là 25.689 đồng/lít, giá xăng E5 là 24.054 đồng/lít, dầu diezel là 23.532 đồng/lít.
Giá nhiên liệu giảm nhưng giá cước vận tải chưa điều chỉnh giảm theo giá xăng dầu, do đó chỉ số giá vận tải hành khách các loại hầu như không thay đổi so với tháng trước.
So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 8/2022 tăng 4,58%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 10 nhóm tăng giá và 01 nhóm giảm giá.
Các nhóm hàng tăng giá trong đó:
- Nhóm giao thông tăng cao nhất với 10,7% (làm CPI chung tăng 0,94 điểm phần trăm) trong đó từ tháng 8/2021 đến nay giá xăng A95 tăng 3.560 đồng/lít, xăng E5 tăng 3.230 đồng/lít, dầu diezel tăng 7.380 đồng/lít.
- Nhóm dịch vụ giáo dục tăng 7,42% (làm CPI chung tăng 0,41 điểm phần trăm) do lộ trình tăng học phí của các trường cao đẳng, đại học.
- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 6,44% (làm CPI chung tăng 0,5 điểm phần trăm) chủ yếu là do chi phí vận chuyển tăng cao cùng với việc đứt gãy chuỗi cung ứng đã làm cho giá nguyện vật liệu đầu vào tăng cao.
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 5,47% (làm CPI chung tăng 2 điểm phần trăm) do giá thực phẩm và giá dịch vụ ăn uống ngoài gia đình tăng.
- Nhóm may mặc, giày dép, mũ nón tăng 4,76%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 4,07%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 3,87%.
Trong 01 nhóm hàng giảm giá:
Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,04% chủ yếu do giá mặt hàng thiết bị di động thông minh và máy tính bảng giảm khi các cửa hàng giảm giá để kích cầu tiêu dùng.
* Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ:
- Giá vàng trong nước biến động cùng chiều với giá vàng thế giới. Chỉ số giá vàng tháng 8/2022 giảm 2,26% so với tháng trước, giảm 0,55% so với tháng 12/2021 và tăng 0,56% so với cùng tháng năm trước. Giá vàng bình quân tháng 8/2022 dao động ở mức 5,23 triệu đồng/chỉ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 8/2022 tăng 0,51% so với tháng trước, tăng 2,88% so với tháng 12/2021 và tăng 2,8% so với cùng tháng năm trước. Tỷ giá USD/VND bình quân tháng 8/2022 dao động ở mức 23.648 đồng/USD, tăng 120,96 đồng/USD.
3. Đầu tư
Các dự án mới vẫn đang trong quá trình chuẩn bị các thủ tục ban đầu, công tác giải phóng mặt bằng một số dự án còn chậm, chi phí phát sinh do giá nguyên, nhiên vật liệu tăng cao là những nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các dự án đầu tư công trên địa bàn thành phố.
Vốn đầu tư thực hiện ước tính tháng 8/2022 đạt 1.846,2 tỷ đồng, tăng 21,25% (tương ứng tăng 323,54 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm 2021. Chia ra: Vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố ước thực hiện 1.386,6 tỷ đồng, tăng 23,55%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 363,5 tỷ đồng, tăng 12,31%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 96,1 tỷ đồng, tăng 25,31% so với cùng kỳ năm 2021.
Tổng số vốn đầu tư thực hiện 8 tháng năm 2022 đạt 8.212,3 tỷ đồng, tăng 25,23% (tương ứng tăng 1.654,4 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm 2021. Chia ra: Vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố ước đạt 5.783,9 tỷ đồng, tăng 25,04% (tương ứng tăng 1.158,42 tỷ đồng); vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 1.876,9 tỷ đồng, tăng 24,05% (tương ứng tăng 363,91 tỷ đồng); vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước đạt 551,5 tỷ đồng, tăng 31,5% (tương ứng tăng 132,1 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm 2021.
Kết quả thực hiện nguồn vốn đầu tư công trong 8 tháng đầu năm 2022 ước đạt khoảng 45,36% so với kế hoạch năm 2022. Mặc dù kết quả thực hiện cao hơn so với cùng kỳ năm 2021 (8 tháng năm 2021 thực hiện đạt 37% kế hoạch năm) nhưng vẫn ở mức thấp so với kế hoạch năm 2022. Một số nguyên nhân chủ yếu như: các dự án mới vẫn đang trong quá trình chuẩn bị, làm thủ tục, quá trình này thông thường mất từ 6-8 tháng nên phải cuối năm 2022 mới có thể giải ngân được. Bên cạnh đó, từ đầu năm giá xăng dầu liên tiếp được điều chỉnh tăng khiến cho giá nguyên, nhiên vật liệu tăng cao gây phát sinh chi phí của dự án nên các nhà thầu có tâm lý chờ giá nguyên, vật liệu hạ nhiệt dẫn đến việc thực hiện vốn đầu tư công trên địa bàn bị chậm. Tại một số dự án việc giải phóng mặt bằng chậm cũng làm ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện vốn đầu tư công.
Hiện tại thành phố đang tích cực đẩy mạnh tiến độ thi công các dự án lớn nhằm đảm bảo kế hoạch đề ra như: dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị mới Bắc sông Cấm, dự án tuyến đường nối tỉnh lộ 354 qua Khu công nghiệp Kiến Thụy đến tuyến đường bộ ven biển, dự án cải tạo nâng cấp đường 359 đoạn từ xã Thủy Triều đến Khu công nghiệp bến Rừng - Thủy Nguyên, dự án tuyến đường nối từ cầu Lạng Am xã Lý Học đến tuyến đường bộ ven biển;...
Bên cạnh đó, thành phố đã thực hiện cắt giảm, điều chuyển vốn của những sở, ngành, địa phương, đơn vị và dự án có tỷ lệ giải ngân thấp sang những nơi có khả năng thực hiện tốt hơn (căn cứ Nghị quyết 21/NQ-HĐND ngày 20 tháng 7 năm 2022). Điều này chứng tỏ thành phố đã có những giải pháp quyết liệt để bảo đảm đúng kế hoạch trung ương giao năm 2022.
Một số dự án lớn đã được phê duyệt chủ trương đầu tư cần được quan tâm thúc đẩy nhanh như: dự án đầu tư xây dựng tuyến đường Vành đai 2 thành phố Hải Phòng, đoạn nút giao Tân Vũ - Hưng Đạo - Đường Bùi Viện, dự án đầu tư xây dựng cầu Nguyễn Trãi và chỉnh trang đô thị vùng phụ cận, dự án đầu tư xây dựng cầu Lại Xuân và cải tạo, mở rộng đường tỉnh 352... Các dự án này cần nhanh chóng hoàn tất thủ tục đầu tư bám sát kế hoạch đã đề ra để việc giải ngân theo kế hoạch. Việc triển khai các dự án thuộc chương trình công viên cây xanh và xây dựng xã nông thôn mới kiểu mẫu cũng chưa đáp ứng yêu cầu. Đáng chú ý, tiến độ giải phóng mặt bằng của nhiều dự án còn chậm và khó khăn, vướng mắc rất nhiều, làm ảnh hưởng tới tốc độ giải ngân vốn đầu tư công.
Thời gian tới để phấn đấu hoàn thành mục tiêu giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2022, thành phố chủ trương đẩy nhanh tiến độ phê duyệt chủ trương và phương án đầu tư, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tiếp tục nắm bắt những khó khăn, vướng mắc của từng dự án, từng gói thầu để kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án triển khai đảm bảo tiến độ đề ra. Bên cạnh đó, các dự án trọng điểm dự kiến khởi công trong năm cũng đầy nhanh các công tác chuẩn bị các thủ tục và mặt bằng để triển khai thực hiện.
* Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tính đến 15/8/2022 Hải Phòng có 826 dự án còn hiệu lực:
Tổng vốn đầu tư : 23.753,41 triệu USD
Vốn điều lệ : 7.444,14 triệu USD
Vốn Việt Nam góp : 226,07 triệu USD
Nước ngoài góp : 7.218,07 triệu USD
Tính từ đầu năm đến 15/8/2022 toàn thành phố có 49 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư 689,09 triệu USD. Trong đó cấp mới trong Khu Công nghiệp, Khu Kinh tế (KCN, KKT) đạt 581,19 triệu USD, (chiếm 84,34%); cấp mới ngoài KCN, KKT đạt 107,90 triệu USD (chiếm 15,66%).
Điều chỉnh tăng vốn đầu tư có 27 dự án, với số vốn tăng là 420,85 triệu USD. Các dự án mới và tăng vốn chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Phân loại các dự án được cấp phép mới:
- Theo loại hình đầu tư: 100% vốn nước ngoài có 49 dự án, vốn đầu tư đạt 689,09 triệu USD.
- Theo lĩnh vực đầu tư: Trong tổng số 689,09 triệu USD vốn FDI thành phố thu hút được từ đầu năm đến nay, có đến 357,56 triệu USD đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo (chiếm 51,89%); 86,61triệu USD đầu tư vào lĩnh vực xây dựng (chiếm 12,57%); 4,66 triệu USD đầu tư vào lĩnh vực thương mại vận tải (chiếm 0,68%) tổng vốn FDI đăng ký; còn lại là các lĩnh vực khác.
- Theo đối tác đầu tư: Tính từ đầu năm đến 15/8/2022, thành phố có 9 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Hải Phòng, trong đó Trung Quốc dẫn đầu với tổng vốn đăng ký đạt 202,20 triệu USD, chiếm 29,34% tổng vốn đầu tư; Singapore đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đạt 128,06 triệu USD, chiếm 18,58% tổng vốn đầu tư và Nhật Bản đứng thứ 3 với tổng vốn đăng ký đạt 121,11 triệu USD, chiếm 17,58% tổng vốn đầu tư.
Tính từ nửa cuối tháng 7 đến 15/8/2022 có 04 dự án cấp mới và 03 dự án điều chỉnh tăng vốn. Đối với dự án cấp mới và dự án điều chỉnh tăng vốn, tổng vốn đăng ký của hoạt động đầu tư đối với các dự án không lớn.
Cũng từ đầu năm đến 15/8/2022, có 14 dự án chấm dứt hoạt động dự án và 01 dự án tạm ngừng hoạt động đến hết năm 2022; 03 dự án chuyển thành dự án 100% trong nước.
4. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm sóc cây trồng vụ Mùa, sản lượng thủy sản giữ được đà tăng trưởng trong cả nuôi trồng và khai thác. Công tác phòng, chống dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi và quản lý vật tư nông nghiệp được triển khai thực hiện hiệu quả.
4.1. Nông nghiệp
* Trồng trọt
Tính đến ngày 15 tháng 8 năm 2022, tổng diện tích gieo trồng cây vụ Mùa trên địa bàn thành phố ước đạt 33.205,8 ha, bằng 95,71% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, diện tích cây lúa ước đạt 28.735,0 ha, bằng 98,20%, diện tích cây ngô ước đạt 207,0 ha, bằng 61,96%, cây khoai lang ước đạt 82,5 ha, bằng 76,28%, nhóm rau các loại ước đạt 3.152,4 ha, bằng 78,57%.
Nhìn chung, các trà lúa sinh trưởng phát triển khá tốt, thuận lợi; các loại cây rau màu chủ lực trong vụ Mùa tiếp tục được mở rộng diện tích gieo trồng trên những chân ruộng chuyên màu, một số vùng sản xuất rau màu tập trung mang lại hiệu quả kinh tế cao đã và đang được triển khai trên địa bàn thành phố.
Sau khi kết thúc gieo trồng các địa phương đã tập trung tuyên truyền, tập huấn, hướng dẫn thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật chăm sóc cây trồng trên các phương tiện truyền thông, hệ thống khuyến nông để nông dân cập nhật thông tin và áp dụng.
* Chăn nuôi
Ước tính tháng 8 năm 2022, số lượng gia súc, gia cầm trên địa bàn thành phố hiện có như sau: Tổng đàn trâu ước đạt 4,17 nghìn con, giảm 0,88% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò ước đạt 8,05 nghìn con, giảm 11,84%.
Tổng đàn lợn toàn thành phố ước đạt 149,97 nghìn con, tăng 4,78% so với cùng kỳ năm trước. Hiện chăn nuôi lợn toàn thành đã dần đi vào ổn định, tốc độ tái đàn tại các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ cũng đã ổn định hơn so với cùng kỳ.
Chăn nuôi gia cầm duy trì ổn định và có xu hướng giảm nhẹ do ảnh hưởng của giá thức ăn chăn nuôi. Tổng đàn gia cầm ước đạt 8.419,17 nghìn con, giảm 2,57% so với cùng kỳ năm trước, trong đó đàn gà ước 6.487,56 nghìn con, giảm 0,71% so với cùng kỳ.
Đối với giá bán sản phẩm chăn nuôi: Giá các loại sản phẩm chăn nuôi đã tăng hơn so với tháng trước, trong đó tăng mạnh nhất là giá thịt lợn hơi với mức tăng 9,11% và dao động quanh mức giá 68,04 nghìn đồng/kg. Nguyên nhân khiến giá các sản phẩm chăn nuôi tăng là do chi phí chăn nuôi vẫn ở mức cao đặc biệt là phí vận chuyển; bên cạnh đó nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm chăn nuôi đã tăng trở lại sau khi tình hình dịch bệnh cơ bản đã được kiểm soát.
4.2. Lâm nghiệp
Tháng 8 năm 2022, sản lượng gỗ khai thác trên địa bàn thành phố ước đạt 82,5 m3, bằng 93,75% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác ước đạt 3.304,5 ste, bằng 92,09%.
Ước tính 8 tháng năm 2022, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 891,6 m3, bằng 92,94% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác ước đạt 24.500,9 ste, bằng 93,12%. Nhìn chung, sản lượng gỗ, củi tiếp tục có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Bên cạnh đó, số cây lâm nghiệp trồng phân tán 8 tháng năm 2022 ước đạt 168,2 nghìn cây, bằng 95,56% so với cùng kỳ năm trước.
4.3. Thủy sản
Sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản tháng 8 năm 2022 ước đạt 15.655,3 tấn, tăng 2,48% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng đầu năm 2022, sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản ước đạt 128.910,0 tấn, tăng 2,35% so với cùng kỳ năm trước.
* Nuôi trồng
Diện tích nuôi trồng thủy sản tháng 8 năm 2022 ước đạt 6.616,3 ha, tăng 0,01% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 8 tháng năm 2022, diện tích nuôi trồng thủy sản ước đạt 10.786,1 ha, tăng 1,08%.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản thu hoạch tháng 8 năm 2022 ước đạt 5.408,9 tấn, tăng 1,20% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 8 tháng năm 2022 sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 49.091,0 tấn, tăng 2,26%, chia ra: cá các loại đạt 31.378,6 tấn, tăng 2,56%; tôm các loại đạt 4.448,7 tấn, tăng 1,50%; thủy sản khác đạt 13.263,7 tấn, tăng 1,81%.
Khu vực nuôi nước ngọt tiếp tục thu hoạch các đối tượng đạt kích cỡ thương phẩm (cá rô phi, cá trắm cỏ, trắm đen...) phục vụ nhu cầu người tiêu dùng; chủ động chăm sóc đàn thủy sản đã thả nuôi. Khu vực nuôi nước lợ tập trung thu hoạch tại các diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng đạt trên 80 ngày tuổi (> 60 con/kg) và thu tỉa tại các đầm nuôi quảng canh cải tiến các đối tượng tôm sú, cua, cá nước lợ; thả bù con giống phục vụ nhu cầu tiêu dùng cuối năm.
Khu vực sản xuất - dịch vụ chủ động cung ứng con giống phục vụ nhu cầu thả nuôi của người dân; sản lượng giống sản xuất trong 8 tháng đầu năm 2022 ước đạt 1.324,3 triệu con giống các loại, tăng 0,56% so với cùng kỳ năm trước.
* Khai thác
Sản lượng khai thác thủy sản tháng 8 năm 2022 ước đạt 10.246,4 tấn, tăng 3,18% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 8 tháng đầu năm 2022, sản lượng thủy sản khai thác của toàn thành phố ước đạt 79.819,0 tấn, tăng 2,40% so với cùng kỳ năm trước.
Sản lượng khai thác biển tiếp tục chiếm đa số (tỷ trọng 96% tổng sản lượng khai thác) với 76.628,2 tấn, tăng 2,47% so với cùng kỳ năm trước. Nghề khai thác biển hiện nay đang vào vụ chính, theo dự báo thời tiết trong tháng 8 tháng năm 2022 Vịnh bắc bộ có nơi mưa vừa, mưa to và xuất hiện giông, bão, các loại cá có xu hướng di cư thẳng đứng, di chuyển vào vùng gần bờ hơn. Với ngư trường khai thác chính của tàu cá Hải Phòng là Vịnh Bắc bộ, khu vực phía Nam, Bắc và Đông đảo Bạch Long Vĩ với các đối tượng khai thác là mực, cá nổi nhỏ (nục, bạc má,…) và một số loại cá đáy (cá bơn, cá hồng…) đội tàu hoạt động quanh khu vực này, khai thác đạt sản lượng tăng khá cao.
Các địa phương tiếp tục tăng cường tuyên truyền vận động chủ tàu/thuyền trưởng và ngư dân bằng nhiều hình thức thường xuyên theo dõi thông tin dự báo thời tiết, dự báo ngư trường nguồn lợi để có kế hoạch sản xuất an toàn, hiệu quả.
5. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trong 8 tháng đầu năm 2022 tiếp tục được duy trì ở mức tăng trưởng khá, hoạt động sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong toàn ngành công nghiệp của thành phố. Tuy nhiên, trước những diễn biến bất ổn của nền kinh tế thế giới, lạm phát tiếp tục gia tăng ở nhiều nước Châu Âu và Mỹ đã có những tác động tiêu cực tới một số ngành sản xuất.
Trong tháng 8/2022 hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố vẫn giữ được mức tăng trưởng khá. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 7/2022 ước tính tăng 7,46% so với tháng trước và tăng 14,01% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,71% so cùng kỳ còn lại 3 ngành đều có chỉ số giảm là ngành khai khoáng giảm 17,84%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 13,43%; và ngành cung cấp nước, xử lý rác thải giảm 0,29% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 8 tháng đầu năm 2022, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 12,16% so với cùng kỳ năm trước (năm 2018 tăng 24,74%; năm 2019 tăng 23,94%; năm 2020 tăng 13,28%; năm 2021 tăng 20,31%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 13,08% đóng góp 12,37 điểm phần trăm và ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 5,04% đóng góp 0,05 điểm phần trăm vào mức tăng chung; hai ngành có chỉ số giảm là ngành khai khoáng giảm 20% và ngành sản xuất, phân phối điện giảm 3,11% tác động làm giảm tương ứng 0,04 và 0,22 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong 59 ngành công nghiệp cấp 4, một số ngành có chỉ số sản xuất tăng cao so với cùng kỳ năm trước: sản xuất hàng may sẵn tăng gấp 4,8 lần; lắp đặt máy móc và thiết bị công nghiệp tăng 2,6 lần; sản xuất máy vi tính và thiết bị ngoại vi của máy vi tính tăng 95,49% so với cùng kỳ; sản xuất linh kiện điện tử tăng 57,98%; sản xuất máy chuyên dụng tăng 44,62%; sản xuất mỹ phẩm xà phòng, chất tẩy rửa tăng 54,02%;... Một số ngành có mức tăng khá: sản xuất hóa chất cơ bản tăng 30,33%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 31,35%; sản xuất plastic và cao su tổng hợp dạng nguyên sinh tăng 34,33%; sản xuất săm lốp, đắp, tái chế lốp cao su tăng 36,25%; chế biến và bảo quản thủy sản tăng 29,7%; sản xuất máy nông lâm nghiệp tăng 43,29%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 26,95%;... Tuy nhiên, ở chiều ngược lại một số ngành có chỉ số sản xuất giảm như: sản xuất gỗ dán, gỗ lạng, ván ép giảm 55,01%; sản xuất pin và ắc quy giảm 37,77%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 30,39%; đóng tàu và cấu kiện nổi giảm 22,76%; khai thác đá, cát, sỏi đất sét giảm 20%; sản xuất đồ điện dân dụng giảm 19,33%...
* Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 8/2022 ước tăng 10,56% so với tháng trước và tăng 29,85% so với cùng kỳ năm trước; cộng dồn 8 tháng/2022 chỉ số tiêu thụ ước tăng 15,00% so với cùng kỳ, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng rất cao (trên 200%) so cùng kỳ như: sản xuất hàng may sẵn tăng 5,5 lần; sản xuất plastic, cao su tổng hợp dạng nguyên sinh tăng 3,3 lần; chế biến bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 2,3 lần. Một số ngành có mức tăng cao: sản xuất săm, lốp cao su; đắp và tái chế lốp cao su tăng 47,43%; sản xuất các loại hàng dệt khác tăng 35,12%... Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng khá như: sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 11,66%; sản xuất bê tông tăng 23,58% ; may trang phục tăng 15,79% ;... Một số ngành tăng một con số như: sản xuất đồ chơi, trò chơi tăng 8,45%; sản xuất xi măng, vôi, thạch cao tăng 6,87%; sản xuất giày dép tăng 3,7%;...
Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm mạnh như: chế biến gỗ giảm 52,27%; sản xuất phân bón và hợp chất nito giảm 34,71%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 21,74%; sản xuất vải dệt thoi giảm 21,16%;...
* Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 31/8/2022 dự kiến tăng 2,48% so với tháng trước và tăng 24,57% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho ước tăng cao so cùng kỳ: sản xuất thiết bị truyền thông tăng 2,7 lần; sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 3,9 lần; sản xuất máy móc và thiết bị văn phòng tăng 3,6 lần; sản xuất điện tử dân dụng tăng 5,1 lần; sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng và thạch cao tăng 6,57 lần;… Bên cạnh đó có một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so với cùng kỳ như: sản xuất thuốc lá 95,48%; sản xuất bi, bánh răng hộp số, các bộ phận điều khiển và truyền chuyển động giảm 84,97%; sản xuất giày dép giảm 80,07%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 55,9%;...
* Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 8 tháng năm 2022 dự kiến tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: tivi trên 805 nghìn chiếc, tăng gấp 2 lần; modun camera trên 96 triệu cái tăng 88,37%; điện cực kim loại cơ bản (nam châm điện) sản xuất đạt 6,5 nghìn tấn tăng 74,42%; mạch điện tử tích hợp sản xuất đạt 24,9 triệu chiếc tăng 57,98%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại sản xuất đạt 6,6 nghìn tấn tăng 55,26%; bột giặt và các chế phẩm dùng để tẩy rửa đạt 49 nghìn tấn tăng 54,02%;...
Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ: phân bón chỉ đạt 128 nghìn tấn bằng 69,61% (-30,39%); ắc quy điện các loại đạt 253 nghìn Kwh giảm 37,77%; bia đóng chai đạt 2,5 triệu lít giảm 41,4%; máy giặt loại không quá 10 kg đạt 727,7 nghìn cái giảm 22,35%; tàu hải quân giá trị đạt 230,6 tỷ đồng giảm 52,98%;...
* Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/8/2022 dự kiến tăng 0,82% so với tháng 7 và tăng 17,7% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 5,89%; lao động doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 11,85%; lao động doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,9%. Tại thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong ngành khai khoáng giảm 14,67% so với cùng thời điểm năm trước; ngược lại ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao nhất với mức tăng đạt 18,26%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,61%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,11%.
Những ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sử dụng lao động tăng so với cùng kỳ gồm: sản xuất thiết bị điện tăng gấp 3 lần; sản xuất các sản phẩm từ kim loại tăng 61,95%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và các sản phẩm quang học tăng 35,56%. Những ngành có chỉ số sử dụng lao động giảm: dệt giảm 61,14%; khai khoáng giảm 14,67%; sản xuất đồ uống giảm 7,89%; sản xuất xe có động cơ giảm 4,23%;...
6. Thương mại, dịch vụ
Tháng 8 năm nay là thời điểm tháng 7 âm lịch, theo truyền thống của người Việt, người dân có xu hướng tập trung cho lễ Vu lan vào rằm tháng Bảy nên nhu cầu về tiêu dùng lương thực, thực phẩm, vật phẩm cúng lễ tăng hơn. Bên cạnh đó, do tâm lí của một bộ phận người dân là hạn chế đi lại, đi chơi, du lịch trong tháng này nên nhu cầu về thăm quan, du lịch, ăn uống ngoài gia đình cũng giảm nhiều so với tháng trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 8/2022 ước đạt 14.890,5 tỷ đồng, tăng 0,83% so với tháng trước, tăng 18,30% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 8 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 113.984,5 tỷ đồng, tăng 13,90% so với cùng kỳ năm trước.
- Hoạt động bán lẻ:
Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 8 năm 2022 ước đạt 12.072,8 tỷ đồng, tăng 1,81% so với tháng trước, tăng 15,01% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, các nhóm ngành hàng đều có ước tính tăng so với tháng trước, cụ thể: doanh thu ngành bán lẻ lương thực, thực phẩm tăng 2,05%; hàng may mặc tăng 0,44%; đồ dùng dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 1,70%; vật phẩm văn hóa giáo dục tăng 1,69%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 1,76%; ô tô con dưới 9 chỗ ngồi tăng 2,88%; phương tiện đi lại khác tăng 1,59%; xăng dầu các loại tăng 2,03%; nhiên liệu khác tăng 1,96%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 1,41%; hàng hóa khác tăng 0,66%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 0,71%.
Ước tính 8 tháng năm 2022, tổng doanh thu bán lẻ đạt 93.200,6 tỷ đồng, tăng 13,20% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu ngành bán lẻ lương thực, thực phẩm tăng 12,53%; hàng may mặc tăng 12,89%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 11,89%; vật phẩm văn hóa giáo dục tăng 12,61%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 12,77%; ô tô con dưới 9 chỗ ngồi tăng 12,50%; phương tiện đi lại khác tăng 12,32%; xăng dầu các loại tăng 16,51%; nhiên liệu khác tăng 16,31%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 12,41%; hàng hóa khác tăng 12,99%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 12,02%.
Tình hình hoạt động bán lẻ hàng hóa tháng 8 tiếp tục tăng trưởng ổn định, không có biến động lớn. Nguồn cung các mặt hàng, nhất là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, nguyên nhiên liệu thiết yếu phục vụ sản xuất (xăng dầu, phân bón, thức ăn chăn nuôi…) luôn được bảo đảm, đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ sản xuất, đời sống của người dân và doanh nghiệp. Nhóm ngành hàng nhiên liệu, năng lượng có xu hướng tăng chậm hơn so với tháng trước do giá giảm, việc giá xăng dầu giảm liên tiếp giúp giá cả một số loại hàng hóa, dịch vụ giảm theo, điều này giúp người tiêu dùng giảm bớt áp lực chi tiêu, cùng với một số tiền, họ sẽ mua được nhiều hàng hơn, thoải mái hơn trong việc chi tiêu của mình từ đó mang đến sự tăng trưởng doanh thu đáng kể cho nhà bán lẻ.
- Hoạt động dịch vụ:
Sau 2 năm hoạt động cầm chừng do ảnh hưởng của dịch Covid-19, tính đến thời điểm hiện tại hoạt động du lịch và dịch vụ đang phục hồi mạnh mẽ, mọi hoạt động đi vào bình thường trở lại, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo an toàn phòng tránh dịch, đặc biệt là đối với ngành lưu trú. Cụ thể, doanh thu ước một số ngành tháng 8:
- Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 8 năm 2022 ước đạt 202,4 tỷ đồng, giảm 5,18% so với tháng trước và tăng 210,03% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng đầu năm 2022, doanh thu lưu trú đạt 1.350,1 tỷ đồng, tăng 46,09% so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 8 năm 2022 ước đạt 1.698,6 tỷ đồng, giảm 1,07% so với tháng trước và tăng 27,55% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng đầu năm, doanh thu ăn uống đạt 12.563,4 tỷ đồng, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu du lịch lữ hành tháng 8 năm 2022 ước đạt 30,9 tỷ đồng, giảm 22,41% so với tháng trước (cùng tháng năm trước do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên hoạt động du lịch không có doanh thu). Tính chung 8 tháng/2022, dịch vụ du lịch lữ hành đạt 129,2 tỷ đồng, tăng 177,91% so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu dịch vụ khác tháng 8 năm 2022 ước đạt 885,8 tỷ đồng, giảm 5,76% so với tháng trước, tăng 27,93% so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 8, một số hoạt động dịch vụ có xu hướng tăng hơn so với tháng trước như: dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 17,69%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,32%; dịch vụ sửa chữa máy vi tính, đồ dùng cá nhân và gia đình tăng 4,21%...
Theo quan niệm dân gian, tháng 8 dương lịch là tháng 7 âm lịch (tháng cô hồn) nên người dân ít có giao dịch hoạt động bất động sản. Vì vậy, tháng 8 so với tháng 7 dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm 9,43%. Ngoài ra, dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ giảm 8,69% so với tháng trước.
Tuy nhiên, tháng 8/2022 so với cùng kỳ năm trước doanh thu một số ngành dịch vụ có tốc độ tăng mạnh như: dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí tăng 4,27 lần; dịch vụ khác tăng 1,91 lần, trong đó dịch vụ phục vụ cá nhân khác tăng 2,23 lần. Nguyên nhân chủ yếu do năm 2021 dịch Covid-19 bùng phát, gần như các ngành dịch vụ đều ngưng trệ và tạm dừng hoạt động.
Tính chung 8 tháng đầu năm 2022, hoạt động dịch vụ khác ước đạt 6.741,2 tỷ đồng, tăng 16,37% so với cùng kỳ năm 2021.
7. Hoạt động lưu trú và lữ hành
Tổng lượt khách tháng 8/2022 do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 787,5 nghìn lượt, tăng 17,87% so với tháng trước và tăng 252,45% so với cùng kỳ; trong đó khách quốc tế đạt 98,4 nghìn lượt, giảm 1,4% so với tháng trước và tăng 33 lần so với cùng tháng năm trước.
Cộng dồn 8 tháng/2022, tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 5.023 nghìn lượt, tăng 75,69% so với cùng kỳ; trong đó khách quốc tế đạt gần 398,2 nghìn lượt, tăng 9,5 lần so với cùng kỳ năm trước.
Đối với hoạt động lữ hành, lượt khách lữ hành của các cơ sở trên địa bàn thành phố tháng 8/2022 ước đạt 14,9 nghìn lượt, giảm 21,83% so với tháng trước (cùng kỳ năm trước hoạt động lữ hành không có doanh thu do ảnh hưởng của dịch Covid-19). Cộng dồn 8 tháng đầu năm 2022, lượt khách du lịch do các cơ sở lữ hành trên địa bàn thành phố phục vụ ước đạt 63,6 nghìn lượt, tăng 147,78% so với cùng kỳ.
8. Giao thông vận tải
Tổng doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và dịch vụ bưu chính, chuyển phát dự kiến tháng 8 đạt 8.713,1 tỷ đồng, tăng 3,62% so với tháng trước và tăng 21,28% so cùng kỳ. Tính chung 8 tháng đầu năm ước đạt 66.934,1 tỷ đồng, tăng 19,24% so với cùng kỳ năm trước.
8.1. Vận tải hàng hoá
Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 8 năm 2022 ước đạt 22,6 triệu tấn, tăng 2,30% so với tháng trước và tăng 21,92% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 8 tháng đầu năm năm 2022 đạt 177,7 triệu tấn, tăng 17,08% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hàng hóa luân chuyển tháng 8 năm 2022 ước đạt 9.688,8 triệu tấn.km, tăng 1,97% so với tháng trước và tăng 9,26% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 8 tháng năm 2022 đạt 75.636,3 triệu tấn, tăng 12,87% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hàng hóa vận chuyển, luân chuyển tháng 8 tăng so với tháng trước tăng chủ yếu ở khối đường bộ và đường biển do các doanh nghiệp vận tải nhận được nhiều đơn hàng hơn tháng trước.
8.2. Vận tải hành khách
Khối lượng hành khách vận chuyển tháng 8 năm 2022 ước đạt 4,4 triệu lượt, tăng 2,88% so với tháng trước, tăng 157,10% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 8 tháng năm 2022 đạt 25,2 triệu lượt, tăng 1,44% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hành khách luân chuyển tháng 8 năm 2022 đạt 177,9 triệu Hk.km, tăng 4,55% so với tháng trước, tăng 146,47% so với cùng tháng năm trước. Ước 8 tháng năm 2022 đạt 1.021,3 triệu Hk.km, tăng 0,11% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hành khách vận chuyển và luân chuyển tháng 8 tăng so với tháng trước tăng chủ yếu ở khối đường bộ do trong tháng có thêm lượng sinh viên trở lại nhập học cho năm học mới nên số lượt khách đi lại bằng xe khách tăng. Trong khi lượng hành khách khối đường bộ tăng, lượng hành khách ven biển giảm do tâm lí tháng 7 âm lịch nên người dân hạn chế đi lại, khiến nhu cầu khách thăm quan, du lịch biển giảm so với tháng trước.
8.3. Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải
Doanh thu dịch vụ kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 8 năm 2022 ước đạt 4.161,5 tỷ đồng, tăng 4,82% so với tháng trước và tăng 19,30% so với cùng tháng năm trước. Ước 8 tháng năm 2022 doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 31.840,7 tỷ đồng, tăng 17,82% so với cùng kỳ năm trước.
8.4. Sân bay Cát Bi
Tháng 8 năm 2022, tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 31,25 tỷ đồng, giảm 18,37% so với tháng trước, tăng 76,58 lần so với cùng tháng năm trước. Cộng dồn 8 tháng đầu năm 2022, tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt gần 203 tỷ đồng, tăng 2,42 lần so với cùng kỳ.
Số lần máy bay hạ, cất cánh tháng 8 năm 2022 ước đạt 2.028 chuyến, giảm 10,54% so với tháng trước, tăng 225,33 lần so với cùng tháng năm trước. Cộng dồn 8 tháng đầu năm, số lần máy bay hạ, cất cánh ước đạt 12.815 chuyến, tăng 2,15 lần so với cùng kỳ.
Tổng số hành khách tháng 8 năm 2022 ước đạt 324,2 nghìn lượt người, giảm 16,8% so với tháng trước, tăng 871,5 lần so với cùng tháng năm trước. Cộng dồn 8 tháng đầu năm, tổng số hành khách vận chuyển ước đạt 2.039,16 nghìn lượt người, tăng 2,77 lần so với cùng kỳ năm trước.
Tổng số hàng hóa tháng 8 năm 2022 ước đạt 1.201 tấn, giảm 1,48% so với tháng trước. Cộng dồn 8 tháng đầu năm, tổng số hàng hóa ước đạt 7.631 tấn, tăng 13,93% so với cùng kỳ.
9. Hàng hoá thông qua cảng
Sản lượng hàng hóa thông qua cảng tháng 8 năm 2022 ước đạt 13.401,8 nghìn TTQ, giảm 4,89% so với tháng trước và tăng 8,83% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể:
- Khối cảng thuộc kinh tế Nhà nước ước đạt 5.120,8 nghìn TTQ, tăng 3,51% so với tháng trước, tăng 18,64% so với cùng kỳ, trong đó:
+ Cảng thuộc khối doanh nghiệp nhà nước Trung ương ước đạt 5.118,8 nghìn TTQ, tăng 3,55% so với tháng trước, tăng 18,75% so với cùng kỳ.
+ Cảng thuộc khối doanh nghiệp Nhà nước địa phương ước đạt 2 nghìn TTQ, giảm 41,66% so với tháng trước, giảm 64,80% so với cùng kỳ.
- Các cảng thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 8.281,0 nghìn TTQ, giảm 9,44% so với tháng trước, tăng 3,54% so với cùng kỳ.
Hàng hóa thông qua cảng biển trên địa bàn thành phố 8 tháng/năm 2022 ước đạt 99.053,9 nghìn tấn, tăng 9,27% so với cùng kỳ.
* Doanh thu cảng biển tháng 8 năm 2022 của khối cảng trên địa bàn thành phố ước đạt 511,1 tỷ đồng, giảm 1,98% so với tháng trước, tăng 7,37% so với cùng kỳ. Doanh thu cảng biển 7 tháng đầu năm 2022 ước đạt 4.380,3 tỷ đồng, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2021.
II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
Hiện nay dịch Covid-19 cơ bản đã được kiểm soát so với thời điểm đầu năm 2022, đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội được chính quyền các cấp quan tâm, các chính sách an sinh xã hội được triển khai kịp thời, hiệu quả đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
1. Giải quyết việc làm, an sinh xã hội
* Công tác Lao động, việc làm
Trong tháng 8/2022, Sàn giao dịch việc làm tổ chức 04 phiên giao dịch việc làm, có trên 100 lượt doanh nghiệp tham gia với nhu cầu tuyển dụng trên 24.500 lượt lao động; cung lao động tại Sàn được 11.000 lượt người; tiêp nhận hồ sơ đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp ước cho 2.210 người, số người có quyết định hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp ước đạt 1.920 người. Ước cấp mới 570 giấy phép lao động, cấp lại 25 giấy phép lao động, gia hạn 15 giấy phép lao động, xác nhận 03 lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Hướng dẫn tiếp nhận Thỏa ước lao động tập thể của 11 doanh nghiệp và ra thông báo thực hiện Nội quy lao động cho 14 doanh nghiệp. Không xảy ra đình công, xảy ra 02 vụ tai nạn lao động làm chết 02 người.
Trong 8 tháng đầu năm 2022, Sàn giao dịch việc làm ước tổ chức được 22 phiên giao dịch việc làm định kỳ và 03 phiên giao dịch lưu động tại một số đơn vị trên địa bàn thành phố với sự tham gia tuyển dụng của 670 lượt doanh nghiệp, nhu cầu tuyển dụng là 148.290 lao động, cung lao động tại Sàn được 71.520 lượt người. Số người đến nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp là 13.240 người, tăng 0,46% so với cùng kỳ năm 2021; số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp là 11.670, giảm 6,59% so với cùng kỳ năm 2021 với số tiền 264,4 tỷ đồng, tăng 5,29% so với cùng kỳ năm 2021; qua giải quyết chế độ thất nghiệp đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho 13.240 người, tăng 0,46% so với cùng kỳ năm 2021. Ước cấp mới 2.810 giấy phép lao động, cấp lại 165 giấy phép lao động, gia hạn 115 giấy phép lao động, xác nhận 21 lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy lao động. Thực hiện thẩm định 173 hồ sơ nội quy lao động và ra thông báo thực hiện nội quy lao động được 67 doanh nghiệp; đã tiếp nhận thỏa ước lao động tập thể của 115 doanh nghiệp. Tiếp nhận và giải quyết 160 bộ hồ sơ đăng ký kiểm tra chất lượng sản phẩm. Tiếp nhận khai báo sử dụng máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt của 137 bộ hồ sơ của 134 đơn vị, doanh nghiệp khai báo. Đến thời điểm báo cáo trên địa bàn thành phố xảy ra 03 cuộc đình công, ngừng việc tập thể, khoảng 2.880 lao động tham gia; xảy ra 09 vụ tai nạn lao động chết người làm 10 người chết.
* Công tác giáo dục nghề nghiệp
Trong tháng 8/2022, hoàn thiện báo cáo về việc thực hiện các quy định về tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và xếp lương; thi hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành giáo dục nghề nghiệp; hoàn thành việc đổi tên Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân thành phố. Trình Ủy ban nhân dân thành phố Báo cáo tổng kết Chỉ thị số 19-CT/TW của Ban Bí thư TW Đảng khóa XI về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dạy nghề cho lao động nông thôn” trên địa bàn thành phố Hải Phòng sau khi tiếp thu ý kiến thẩm định của Ban Tuyên giáo Thành ủy.
Trong 8 tháng đầu năm 2022, hoàn thành việc tổ chức Hội thi thiết bị đào tạo tự làm thành phố năm 2022 với 34 thiết bị dự thi từ 11 cơ sở GDNN, kết quả 05 thiết đạt giải Nhất, 05 thiết bị đạt giải Nhì, 07 thiết bị đạt giải Ba, 07 thiết bị đạt giải Khuyến khích. Tổ chức thẩm định trình UBND thành phố xếp hạng cho 05 cơ sở GDNN công lập thuộc thành phố. Báo cáo Tổng cục GDNN việc thực hiện quy định hệ thống đảm bảo chất lượng của cơ sở GDNN năm 2021 và kết quả tuyển sinh, đào tạo GDNN trên địa bàn thành phố năm 2021 theo quy định; đề xuất hồ sơ đề nghị tuyên dương học sinh, sinh viên GDNN xuất sắc, tiêu biểu năm 2022.
Đế thời điểm báo cáo, mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn thành phố gồm 44 cơ sở GDNN (19 trường cao đẳng, 12 trường trung cấp, 13 trung tâm GDNN) và 25 cơ sở hoạt động GDNN (14 trung tâm GDNN và GDTX quận, huyện và 11 doanh nghiệp). Tuyển sinh GDNN ước đạt 31.350 học sinh - sinh viên, đạt 59,7% kế hoạch năm và bằng 102% so với cùng kỳ năm 2021; tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 85,7% tăng 0,5% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo chứng chỉ, bằng cấp từ 3 tháng trở lên đạt 36,6% tăng 1% so với cùng kỳ năm 2021.
* Công tác người có công
Trong tháng 8/2022, quyết định, đề nghị thực hiện chính sách đối với 342 trường hợp, gồm: trợ cấp mai táng phí đối với 254 người; trợ cấp hàng tháng đối với 09 người; chế độ thờ cúng liệt sĩ: 79 người. Tiếp nhận, thẩm định để thực hiện chính sách và phục vụ công tác quản lý đối với 928 trường hợp. Xác nhận, công nhận người có công và quyết định cho hưởng chế độ đối với 34 trường hợp.
Trong 8 tháng đầu năm 2022, giải quyết chế độ chính sách đối với 2.146 trường hợp, gồm: trợ cấp một lần đối với 1.711 người; trợ cấp hàng tháng đối với 118 người; chế độ thờ cúng liệt sĩ đối với 317 người. Tiếp nhận, thẩm định để thực hiện chính sách và phục vụ công tác quản lý đối với 4.597 trường hợp. Xác nhận, công nhận người có công, quyết định cho hưởng chế độ đối với 176 trường hợp.
* Công tác Giảm nghèo - Bảo trợ xã hội
Trong tháng 8/2022, đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố trình Hội đồng nhân dân thành phố ban hành Nghị quyết 04/2022/NQ-HĐND ngày 20/7/2022 quy định một số chính sách đặc thù hỗ trợ người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo giai đoạn 2022-2025 trên địa bàn thành phố. Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững từ tháng 7/2024 đến hết năm 2021 và ước kết quả thực hiện năm 2022; xây dựng Kế hoạch và đề xuất kinh phí năm 2023 thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2022-2025. Đến thời điểm báo cáo, tổng số người lang thang tập trung trong tháng là 36 lượt người lang thang, tiếp nhận thêm 05 đối tượng vào Trung tâm điều dưỡng người tâm thần.
Trong 8 tháng đầu năm 2022, đã tiếp nhận 406 đối tượng nuôi dưỡng tập trung tại các cơ sở trợ giúp xã hội công lập thành phố. Tổng số lượng các đối tượng tại các cơ sở trợ giúp xã hội là 751 người. Tập trung người lang thang trên địa bàn thành phố đạt 241 lượt người. Tham mưu với Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 633/QĐ-UBND ngày 25/02/2022 phê duyệt phương thức chi trả chính sách trợ giúp xã hội trên địa bàn thành phố. Xin chủ trương xây dựng Nghị quyết quy định mức quà tặng chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi giai đoạn 2023-2025 trên địa bàn thành phố.
* Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội
Trong tháng 8/2022, tổ chức tiếp nhận, cai nghiện ma túy tập trung cho 60 lượt người; số người nghiện ma túy đang quản lý tại các Cơ sở cai nghiện ma túy và Trường LĐXH Thanh Xuân là 790 người; cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 25 người. Điều trị Methadone toàn thành phố (18 cơ sở) cho 3.980 người, trong đó ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đang quản lý 06 cơ sở điều trị cho 1.230 người. Đoàn kiểm tra 178 thành phố đã tiến hành kiểm tra 05 buổi tại 14 cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, qua kiểm tra Đoàn đã lập biên bản chuyển thanh tra chuyên ngành xử phạt 03 cơ sở kinh doanh dịch vụ với tổng số tiền là 10,5 triệu đồng.
Trong 8 tháng đầu năm 2022, tổ chức tiếp nhận, cai nghiện ma túy tập trung cho 1.295 lượt người (bằng 67,69% so với cùng kỳ năm trước); cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 175 người (bằng 123,23% so với cùng kỳ năm trước). Điều trị Methadone toàn thành phố (18 cơ sở) cho 3.980 người, trong đó ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đang quản lý 06 cơ sở điều trị cho 1.379 người (bằng 98,99% so với cùng kỳ năm trước). Tổ chức xét nghiệm ma túy 02 đợt cho 84 đối tượng, kết quả có 23 trường hợp dương tính với chất ma túy.
2. Giáo dục - Đào tạo
Trong tháng 8/2022, Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố tham dự Hội nghị tổng kết năm học 2021-2022, triển khai nhiệm vụ năm học 2022-2023 của Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức theo hình thức trực tiếp và trực tuyến. Năm học 2021-2022, dịch Covid-19 bùng phát trở lại và diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng nặng nề đến nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Ngành giáo dục Hải Phòng đã chủ động chuyển trạng thái hoạt động, tổ chức dạy học linh hoạt theo Khung kế hoạch năm học, tinh giản chương trình, chuẩn bị các điều kiện dạy học trực tuyến nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của dịch bệnh; Tiếp tục hoàn thiện thể chế, nhằm tháo gỡ những “nút thắt”, tạo hành lang pháp lý cho đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo yêu cầu của Nghị quyết số 29-NQ/TW của Trung ương; Tổ chức thành công Kỳ thi tốt nghiệp THPT 2022 đảm bảo nghiêm túc và an toàn.
Năm học 2021-2022, ngành Giáo dục Hải Phòng duy trì thành tích nhiều năm liên tục nằm trong những thành phố dẫn đầu cả nước về chất lượng giáo dục. Qua các kỳ thi THPT quốc gia, thi Tốt nghiệp THPT, điểm bình quân của học sinh Hải Phòng liên tục đứng trong tốp các thành phố dẫn đầu cả nước. Toàn thành phố đã có hơn 66,2% trường học đạt chuẩn quốc gia.
Trong 8 tháng đầu năm 2022, Sở Giáo dục và Đào tạo đã tăng cường chuyển đổi số và đẩy mạnh cải cách hành chính; xây dựng hạ tầng học tập Quốc gia; xây dựng kho học liệu số; tăng cường các điều kiện đảm bảo và kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học trực tuyến. Thường xuyên tổ chức kiểm tra đánh giá, tư vấn, giám sát các đơn vị thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước về công tác tổ chức quản lý, các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục, thực hiện chế độ chính sách đối với giáo viên và học sinh trong các cơ sở giáo dục.
3. Y tế và An toàn vệ sinh thực phẩm
* Công tác y tế dự phòng
Công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19
Trong tháng 8/2022, thành phố chủ động nhận định tình hình dịch bệnh trong nước và thế giới để tham mưu xây dựng kế hoạch phòng chống dịch phù hợp với bối cảnh thực tế. Đẩy nhanh tiến độ tiêm vắc xin mũi bổ sung, mũi nhắc lại và vắc xin cho các đối tượng có nguy cơ cao, đảm bảo an toàn, hiệu quả. Chủ động, tăng cường giám sát tích cực phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm khác.
Tính đến ngày 22/8/2022, số ca mắc là 517.437 ca, số ca hồi phục xuất viện là 516.577 ca; đang điều trị là 704 ca; số ca tử vong là 156 ca.
Số cơ sở cách ly y tế: cách ly tại nhà, nơi cư trú là 344 người. Xét nghiệm: tổng tích lũy từ ngày 23/3/2020 đến ngày 22/8/2022 đã lấy 2.998.092 mẫu xét nghiệm; tính trong thời gian từ ngày 27/4/2021 đến ngày 22/8/2022 đã lấy 22.887.815 mẫu xét nghiệm. Tiêm vắc xin: tổng tích lũy mũi tiêm đến nay: 5.345.067 mũi (người lớn: 4.569.345 mũi; trẻ em từ 12-17 tuổi: 466.127 mũi; trẻ em từ 5-11 tuổi: 309.595 mũi).
*Công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm khác
Tình hình các bệnh truyền nhiễm gây dịch trong toàn thành phố tháng 8/2022, ghi nhận 821 ca chân tay miệng, sốt xuất huyết ghi nhận 114 ca, bệnh thủy đậu ghi nhận 73 ca, bệnh sốt xuất huyết ghi nhận 69 ca, bệnh chân tay chân miệng ghi nhận 12 ca, bệnh quai bị ghi nhận 07 ca, bệnh tiêu chảy ghi nhận 170 ca, hội chứng lỵ ghi nhận 05 ca, cúm ghi nhận 352 ca, sởi không ghi nhận ca bệnh, bệnh liên cầu lợn ở người không ghi nhận ca bệnh, bệnh viêm não vi rút ghi nhận 02 ca.
* Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Thành lập các đoàn kiểm tra an toàn thực phẩm các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại khu du lịch và Đồ Sơn, Cát Bà năm 2022, kiểm tra 49 cơ sở và đã xử phạt 02 cơ sở với số tiền 16 triệu đồng với lỗi thực hiện không đúng quy định của pháp luật về lưu mẫu thức ăn. Xử phạt một công ty trên địa bàn thành phố về vi phạm quy định an toàn thực phẩm với số tiền là 135 triệu đồng.
Kiểm tra công tác an toàn thực phẩm tại cơ sở sản xuất, kinh doanh nước uống đóng chai, nước đá dùng liền năm 2022 trên địa bàn thành phố tại 47 cơ sở và đã xử phạt 02 cơ sở với số tiền 25 triệu đồng.
* Công tác phòng chống HIV/AIDS
Ước tính 8 tháng đầu năm 2022, số người nhiễm HIV mới là 75 người; số người chuyển sang AIDS là 15 người, số người tử vong là 21 người; số người nhiễm HIV hiện còn sống là 6.227 người. Số liệu dịch trong tháng báo cáo giảm về số nhiễm HIV và chuyển sang AIDS và số ca tử vong so với cùng kỳ năm ngoái. Tính đến thời điểm báo cáo, Ngành y tế đang điều trị Methadone cho 2.779 bệnh nhân; đề án Thí điểm cấp phát thuốc Methadone nhiều ngày đã cấp cho 600 bệnh nhân tại 08 cơ sở điều trị.
4. Văn hóa - Thể thao
Thành phố đã tổ chức các hoạt động chào mừng kỷ niệm 77 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2022) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2022); tổ chức “Cuộc thi Tài năng Múa rối toàn quốc - 2022”; chương trình Sân khấu truyền hình vở cải lương “Lôi Vũ”. Tổ chức các môn thi đấu trong chương trình Đại hội Thể dục thể thao Hải Phòng lần thứ IX năm 2022: Thể dục Aerobic, bơi trong bể và môn võ cổ truyền; tổ chức chung kết giải Bóng đá Hoa Phượng - Cup Báo Hải Phòng lần thứ XII năm 2022; giải bơi thiếu niên, nhi đồng và bơi cứu đuối phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em thành phố Hải Phòng năm 2022. Tiếp tục nhận bài dự thi Sáng tác biểu tượng Hải Phòng; tiếp tục triển khai Đề án nghiên cứu, lựa chọn bổ sung tượng danh nhân, công trình điêu khắc đặt tại một số vườn hoa, công viên trên địa bàn thành phố; tiếp tục xây dựng Đề án công trợ kinh phí trùng tu tôn tạo di tích cấp quốc gia trình Hội đồng nhân dân thành phố; xây dựng Nghị quyết đặt tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn thành phố; phối hợp, hướng dẫn các quận, huyện triển khai thực hiện lập hồ sơ báo cáo kinh tế - kỹ thuật tu bổ, tôn tạo di tích được công trợ tại Nghị quyết 22/NQ - HĐND của Hội đồng nhân dân thành phố, phân kỳ năm 2022.
5. Tình hình trật tự an toàn giao thông
Từ ngày 15/7/2022 đến ngày 14/8/2022, toàn thành phố xảy ra 03 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 02 người chết và 03 người bị thương. Số vụ tai nạn giao thông giảm 01 vụ, số người chết giảm 01 người so với cùng kỳ năm trước, số người bị thương không tăng không giảm so với cùng kỳ năm trước. Các vụ tai nạn chủ yếu từ va chạm cá nhân, do người dân chưa chấp hành đúng luật, không tuân thủ các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông.
Trong 8 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 38 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 01 vụ tai nạn giao thông đường sắt. Các vụ tai nạn giao thông làm chết 35 người và bị thương 08 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 07 vụ với cùng kỳ năm ngoái (tương ứng giảm 15,22%), số người chết giảm 02 người (tương ứng giảm 5,41%) và số người bị thương giảm 18 người (tương ứng giảm 69,23%).
6. Công tác phòng chống cháy, nổ
Từ ngày 15/7/2022 đến ngày 14/8/2022, trên địa bàn thành phố Hải Phòng đã xảy ra 03 vụ cháy, không gây thiệt hại về người, giá trị thiệt hại về tài sản đang trong quá trình xác minh.
Trong 8 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 46 vụ cháy, giảm 10 vụ so với cùng kỳ năm trước (tương ứng giảm 17,86%), làm 01 người chết, không có người bị thương, nguyên nhân các vụ cháy chủ yếu do tình trạng bất cẩn trong cách sử dụng các thiết bị có nguy cơ cháy, nổ cao; một số vụ cháy thảm thực bì rừng gây thiệt hại ước tính là 8,1 ha, các vụ cháy khác đang trong quá trình điều tra, xác định giá trị thiệt hại về tài sản. Trong thời gian tới, thành phố tiếp tục chú trọng tăng cường phối hợp liên ngành để kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy tại các địa bàn, cơ sở trọng điểm dễ xảy ra cháy nổ, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định về phòng cháy chữa cháy./.
Cục Thống kê thành phố Hải Phòng