Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11, 11 tháng năm 2022 của thành phố Hải Phòng
I. PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Hoạt động tài chính, ngân hàng
1.1 Tài chính
Ước tính 11 tháng năm 2022, hoạt động tài chính trên địa bàn thành phố tiếp tục ổn định, thành phố chỉ đạo tích cực quản lý thu, chống thất thu, xử lý nợ đọng; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp...
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố tháng 11 năm 2022 ước đạt 6.745,9 tỷ đồng, trong đó: thu nội địa ước đạt 1.919,4 tỷ đồng; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 4.823 tỷ đồng. Ước 11 tháng/2022 thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn thành phố đạt 95.036,2 tỷ đồng, đạt 90% dự toán HĐND thành phố giao và bằng 113,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu nội địa đạt 32.354 tỷ đồng, đạt 78,9% dự toán HĐND thành phố giao và bằng 109,7% so với cùng kỳ năm trước; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 61.452,2 tỷ đồng, đạt 102,4% dự toán HĐND thành phố giao và bằng 116% so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính 11 tháng/2022, trong số thu nội địa: thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 2.640,4 tỷ đồng, đạt 88,9% dự toán HĐND thành phố giao và bằng 100,9% so với cùng kỳ năm trước; thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5.122,5 tỷ đồng, đạt 112,6% và bằng 115,4%; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 7.422,4 tỷ đồng, đạt 67,9% và bằng 86%; thuế thu nhập cá nhân đạt 3.415 tỷ đồng, đạt 102,9% và bằng 115%;...
Tổng chi ngân sách địa phương tháng 11 năm 2022 ước đạt 3.026,1 tỷ đồng; ước 11 tháng/2022 đạt 21.698,5 tỷ đồng, đạt 59,8% dự toán HĐND thành phố giao và bằng 104,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: tổng chi đầu tư phát triển đạt 10.073,4 tỷ đồng, đạt 55,5% và bằng 104,4%; chi thường xuyên đạt 10.821,8 tỷ đồng đạt 78,5% và bằng 107,6% .
1.2. Ngân hàng
Hoạt động ngân hàng 11 tháng năm 2022 trên địa bàn thành phố tiếp tục đảm bảo an toàn, hiệu quả. Ước đến 30/11/2022, tỷ lệ nợ xấu ở mức dưới 2% trên tổng dư nợ.
* Công tác huy động vốn
Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn ước thực hiện đến 30/11/2022 đạt 274.909 tỷ đồng, bằng 106,03% so với cùng kỳ năm trước.
Theo loại tiền: Huy động bằng VND ước đạt 259.063 tỷ đồng, bằng 105,84% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 94,24%; ngoại tệ (quy đổi VND) ước đạt 15.847 tỷ đồng, bằng 109,26% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 5,76%.
Theo hình thức huy động: Huy động tiền gửi tiết kiệm ước đạt 164.251 tỷ đồng, bằng 107,74% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 59,75%; tiền gửi thanh toán ước đạt 105.117 tỷ đồng, bằng 104,21% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 38,24%; phát hành giấy tờ có giá ước đạt 5.542 tỷ đồng, bằng 92,85%, chiếm tỷ trọng 2,02%.
* Công tác tín dụng
Tổng dư nợ cho vay đến 30/11/2022 ước đạt 176.329 tỷ đồng, bằng 120,2% so với cùng kỳ năm trước.
Cơ cấu dư nợ theo loại tiền: Cho vay bằng VND ước đạt 167.752 tỷ đồng, bằng 121,74% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 95,15%. Cho vay ngoại tệ (quy đổi VND) ước đạt 8.577 tỷ đồng, bằng 96,32% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 4,85%.
Cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn ước đạt 92.092 tỷ đồng, bằng 121,08% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 52,23%; cho vay trung, dài hạn ước đạt 84.237 tỷ đồng, bằng 119,26% so với cùng kỳ năm trước, chiếm tỷ trọng 47,77%.
2. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Giá xăng dầu, giá gas tăng theo giá nhiên liệu thế giới; nhu cầu thuê nhà của công nhân tăng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2022 tăng 0,05% so với tháng trước; tăng 3,96% so với tháng 12/2021 và tăng 3,90% so với cùng kỳ năm trước.
So với tháng trước, CPI thành phố Hải Phòng tháng 11/2022 tăng 0,05% (khu vực thành thị giảm 0,34%; khu vực nông thôn tăng 0,55%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 07 nhóm hàng có chỉ số giá tăng so với tháng trước và 03 nhóm có chỉ số giá tiêu dùng giảm.
Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 11/2022 giảm 1,29% so với tháng trước, tác động làm CPI chung giảm 0,46 điểm phần trăm, trong đó lương thực tăng 0,27%; thực phẩm giảm 1,93% tác động làm CPI chung giảm 0,47 điểm phần trăm; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,01%.
So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 11/2022 tăng 3,90%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 10 nhóm tăng giá và 01 nhóm giảm giá.
So với tháng 12/2021, CPI tháng 11/2022 tăng 3,96%, trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 10 nhóm hàng tăng giá.
Bình quân 11 tháng năm 2022, CPI tăng 3,44% so với cùng kỳ năm trước.
Một số nguyên nhân làm tăng CPI 11 tháng đầu năm 2022
- Trong 11 tháng năm 2022, giá xăng dầu trong nước điều chỉnh 31 đợt (trong đó có 11 đợt giảm giá), làm cho giá xăng dầu bình quân 11 tháng tăng 30,15%, tác động CPI chung tăng 1,04 điểm phần trăm.
- Ăn uống ngoài gia đình tăng 6,78%, làm CPI chung tăng 0,59 điểm phần trăm do nhu cầu ăn uống tăng khi dịch bệnh Covid-19 được kiểm soát.
- Giá gas trong nước biến động theo giá gas thế giới, tính từ đầu năm đến nay, giá gas tăng 12,77%, góp phần làm CPI chung tăng 0,13 điểm phần trăm.
- Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 7,67% so với cùng kỳ năm trước do giá xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào, tác động làm CPI chung tăng 0,15 điểm phần trăm.
- Giá thực phẩm 11 tháng năm 2022 tăng 1,46%, tác động làm CPI chung tăng 0,36 điểm phần trăm.
Một số nguyên nhân làm giảm CPI 11 tháng đầu năm 2022
Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI 11 tháng năm 2022, giá một số mặt hàng thực phẩm giảm như thịt lợn giảm 15,54%; thịt gia súc đông lạnh giảm 8,14%; mỡ động vật giảm 14,87%; giá bưu chính viễn thông giảm 0,46% là nguyên nhân làm giảm CPI 11 tháng năm 2022 so với cùng kỳ năm trước.
* Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ:
- Giá vàng trong nước thường có xu hướng tăng vào dịp cuối năm, thêm vào đó giá vàng trong nước chịu ảnh hưởng bởi giá vàng thế giới. Do đó, chỉ số giá vàng tháng 11/2022 tăng 1,97% so với tháng trước, tăng 1,48% so với tháng 12/2021 và tăng 1,12% so với cùng tháng năm trước. Giá vàng bình quân tháng 11/2022 dao động ở mức 5,33 triệu đồng/chỉ.
- Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2022 tăng 2,86% so với tháng trước, tăng 8,2% so với tháng 12/2021 và tăng 9,1% so với cùng tháng năm trước. Đồng đô la tiếp tục tăng giá sau khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) ngày 02/11 tiếp tục nâng lãi suất tham chiếu thêm 75 điểm cơ bản, nhằm hạ nhiệt lạm phát cao nhất 40 năm. Đợt tăng 0,75% này đã kéo lãi suất của FED lên phạm vi 3,75 - 4%. Đây là mức cao nhất kể từ tháng 01/2008.
3. Đầu tư
Trong những tháng còn lại của năm 2022, trước xu hướng biến động ngày càng phức tạp, khó lường hơn của thế giới, nền kinh tế dự báo phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Để duy trì động lực phục hồi, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế cả năm 2022, thành phố tập trung chỉ đạo đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, coi đây là động lực thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên đến nay tình hình thực hiện vốn đầu tư công trên địa bàn thành phố vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Mười một ước đạt 2.602,6 tỷ đồng, tăng 5,13% (tương ứng tăng 127,07 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm 2021. Chia ra: Vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố đạt 2.071,6 tỷ đồng, tăng 6,67%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 412,4 tỷ đồng, tăng 22,83%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã đạt 118,6 tỷ đồng, chỉ bằng 59,97% so với cùng kỳ năm 2021.
Tính chung 11 tháng năm 2022, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước ước đạt 15.065,4 tỷ đồng, tăng 16,53% (tương ứng tăng 2.137,1 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm 2021. Chia ra: Vốn ngân sách nhà nước cấp thành phố ước đạt 11.113,5 tỷ đồng, tăng 15,93%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 3.081,0 tỷ đồng, tăng 24,65% so với cùng kỳ năm 2021; vốn ngân sách nhà nước cấp xã đạt 870,9 tỷ đồng, tăng 0,03% so với cùng kỳ.
Căn cứ vào tình hình thu ngân sách trên địa bàn, thành phố đã điều chỉnh, bổ sung (lần 3) Kế hoạch đầu tư công của Hải Phòng năm 2022 từ 18.103,7 tỷ đồng lên 20.397,1 tỷ đồng (Quyết định số 3559/QĐ-UND ngày 24 tháng 10 năm 2022). So với cả nước, Hải Phòng hiện đang là một trong những tỉnh thành có tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư cao nhất. Thành phố dự kiến kết thúc năm ngân sách phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch vốn đầu tư được giao trong năm 2022. Tuy nhiên, tính đến hết tháng 11/2022, Hải Phòng mới giải ngân được khoảng hơn 50% kế hoạch vốn thành phố giao, đạt trên 70% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Nguyên nhân chủ yếu là tiến độ thi công của các dự án chuyển tiếp và tiến độ hoàn thành thủ tục đầu tư của các dự án khởi công mới còn chậm. Bên cạnh đó thì việc thiếu cát trầm trọng thời gian qua vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Trong quá trình thi công, các nhà thầu gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vật liệu cát san đắp nền, giá nguyên vật liệu biến động tăng cao (bao gồm cước vận chuyển do giá xăng dầu tiếp tục chu kỳ tăng cao) gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ thi công của một số công trình.
Hiện tại thành phố đang tích cực đẩy mạnh tiến độ thi công một số dự án trọng điểm đảm bảo hoàn thành đúng hạn vào ngày 30/4/2023 như: Dự án tuyến đường nối từ cầu Lạng Am Lý Học đến tuyến đường bộ ven biển, Dự án đầu tư xây dựng mở rộng tuyến đường bộ ven biển đoạn qua địa bàn thành phố Hải Phòng từ ĐT.353 đến cầu Thái Bình (Km0- Km 19+645)… Trong thời gian tới, hạ tầng giao thông của thành phố tiếp tục được mở rộng đồng bộ, nhiều dự án trọng điểm đẩy mạnh liên kết vùng được triển khai như: Cầu Bến Rừng nối huyện Thuỷ Nguyên (Hải Phòng) với thị xã Quảng Yên (tỉnh Quảng Ninh); Cầu Nguyễn Trãi, cầu Vũ Yên II, các tuyến đường vành đai thành phố, các bến mới tại cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện… Một số dự án được dự kiến hoàn thành năm 2022 như: Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới Bắc Sông Cấm, dự án đường nối tỉnh lộ 361 đến 353 huyện Kiến Thụy…
Ngoài ra, trong tháng 10 năm 2022, thành phố cũng tiến hành khởi công dự án chỉnh trang sông Tam Bạc giai đoạn 2 (đoạn từ cầu Lạc Long đến Hoàng Văn Thụ với tổng mức đầu tư hơn 557 tỷ đồng từ nguồn Ngân sách thành phố dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2024.
Bên cạnh những dự án đang triển khai thực hiện ổn định, vẫn còn những dự án có tiến độ giải phóng mặt bằng chậm và gặp nhiều khó khăn, vướng mắc gây ảnh hưởng tới tốc độ giải ngân vốn đầu tư công. Một số dự án lớn đã được phê duyệt chủ trương đầu tư cần được quan tâm thúc đẩy nhanh như: dự án đầu tư xây dựng tuyến đường Vành đai 2 thành phố Hải Phòng, đoạn nút giao Tân Vũ - Hưng Đạo - Đường Bùi Viện, dự án đầu tư xây dựng cầu Lại Xuân và cải tạo, mở rộng đường tỉnh 352... Các dự án này cần nhanh chóng hoàn tất thủ tục đầu tư bám sát kế hoạch đã đề ra để việc giải ngân theo kế hoạch. Việc triển khai các dự án thuộc chương trình công viên cây xanh và xây dựng xã nông thôn mới kiểu mẫu cũng chưa đáp ứng yêu cầu.
Để đảm bảo tiến độ giải ngân, thực hiện Nghị quyết số 124/NQ-CP (ngày 15/9/2022) của Chính phủ “Về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công những tháng cuối năm 2022”, thời gian tới các cấp các ngành của thành phố cần tiếp tục đẩy nhanh tiến độ phê duyệt chủ trương và phương án đầu tư, tiến độ giải phóng mặt bằng, chủ động nắm bắt những khó khăn, vướng mắc của từng dự án, từng gói thầu để kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án triển khai đảm bảo tiến độ đề ra.
* Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tính đến 15/11/2022 Hải Phòng có 853 dự án còn hiệu lực:
Tổng vốn đầu tư : 24.502,7 triệu USD
Vốn điều lệ : 7.495,8 triệu USD
Vốn Việt Nam góp : 226,07 triệu USD
Nước ngoài góp : 7.269,74 triệu USD
Từ đầu năm đến 15/11/2022, toàn thành phố có 80 dự án cấp mới với số vốn đầu tư đạt 1.037,78 triệu USD. Trong đó cấp mới trong KCN, KKT đạt 920,89 triệu USD, (chiếm 88,74%); cấp mới ngoài KCN, KKT đạt 116,89 triệu USD (chiếm 11,26%).
Điều chỉnh tăng vốn đầu tư có 36 dự án, với số vốn tăng là 881,52 triệu USD. Các dự án mới và tăng vốn chủ yếu ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Tính từ nửa cuối tháng 10 đến 15/11/2022 có 15 dự án cấp mới và 04 dự án điều chỉnh tăng vốn. Đối với dự án cấp mới, tổng vốn đăng ký của hoạt động đầu tư đối với các dự án không lớn. Đối với dự án điều chỉnh tăng vốn, đáng kể nhất là dự án Pegatron Việt Nam (Nhà đầu tư Đài Loan) với số vốn điều chỉnh tăng 300 triệu USD và dự án của Cty TNHH Agape Việt Nam (Nhà đầu tư Singapore) với số vốn điều chỉnh tăng là 126,95 triệu USD.
Cũng từ đầu năm đến 15/11/2022, có 20 dự án chấm dứt hoạt động (15 dự án ngoài KCN, 5 dự án trong KCN); 2 dự án chuyển thành 100% trong nước và 01 dự án tạm ngừng hoạt động đến hết năm 2022.
4. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản
Sản xuất nông nghiệp trong tháng 11/2022 tiếp tục tập trung vào việc hoàn tất thu hoạch lúa Mùa và gieo trồng các loại cây màu vụ Đông, đảm bảo khung thời vụ. Tình hình nuôi trồng và khai thác thủy sản phát triển ổn định, công tác quản lý, bảo vệ rừng được chú trọng và tăng cường thực hiện trên toàn thành phố.
4.1. Nông nghiệp
* Trồng trọt
- Sản xuất vụ Mùa
Tính đến trung tuần tháng 11/2022, diện tích lúa vụ Mùa đã cơ bản thu hoạch xong (đạt 94% diện tích gieo cấy), chỉ còn lại những diện tích lúa nếp (chủ yếu là giống Nếp cái hoa vàng) và một ít diện tích lúa tẻ cấy muộn chưa thu hoạch; diện tích cây hàng năm khác đã thu hoạch đạt 100% diện tích gieo trồng. Kết quả sơ bộ của một số cây trồng cụ thể như sau:
Cây lúa: Năng suất lúa vụ Mùa năm 2022 ước đạt 58,65 tạ/ha, bằng 100,25% so với cùng kỳ năm trước, năng suất giữ được sự ổn định do quá trình sản xuất có nhiều điều kiện thuận lợi như: Nguồn cung ứng giống, vật tư nông nghiệp đáp ứng kịp thời cho sản xuất, công tác quản lý nhà nước về vật tư nông nghiệp ngày càng được tăng cường; công tác dự tính, dự báo chỉ đạo phòng trừ sinh vật gây hại kịp thời, chỉ đạo tập trung và đạt hiệu quả cao; liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp được chú trọng.
Sản lượng lúa vụ Mùa năm 2022 ước đạt 168.950,8 tấn, bằng 98,69% so với vụ Mùa năm trước. Sản lượng lúa của các huyện có diện tích gieo trồng lúa lớn trong vụ Mùa năm nay đều giữ được sự ổn định so với cùng kỳ, trong đó: huyện Vĩnh Bảo chiếm 31,3% tổng sản lượng lúa toàn thành phố, huyện Tiên Lãng chiếm 23,3%, huyện Thủy Nguyên chiếm 15,5%, huyện An Lão chiếm 11% và huyện Kiến Thụy chiếm 10,7%.
Cây hàng năm khác:
Vụ mùa năm nay thời tiết thuận lợi, diện tích đất trồng cây rau màu trên địa bàn các huyện được cải tạo đã thúc đẩy gieo trồng, ổn định diện tích nhóm cây rau, đậu và hoa các loại. Diện tích nhóm cây trong vụ Mùa năm 2022 ước đạt 4.305,5 ha, bằng 99,21% so với năm 2021.
Năng suất nhóm cây rau các loại ước đạt 230,71 tạ/ha, bằng 101,1% so cùng kỳ năm trước, trong đó: năng suất nhóm rau lấy lá đạt 229 tạ/ha, bằng 100,63%; năng suất nhóm cây dưa lấy quả đạt 284,73 tạ/ha, bằng 99,86%; năng suất nhóm rau lấy quả đạt 239,92 tạ/ha, bằng 98,5%; năng suất nhóm rau lấy củ, rễ, thân đạt 182,86 tạ/ha, bằng 100,46%.
- Sản xuất vụ Đông
Diện tích gieo trồng cây vụ Đông ước đạt 3.185,6 ha, đạt 37,5% kế hoạch cây vụ Đông năm 2022 của thành phố.
Một số vùng trồng cây vụ Đông trọng điểm của thành phố đang tích cực đưa cơ giới hóa vào sản xuất nhằm đẩy nhanh tiến độ làm đất, chuẩn bị mặt bằng để gieo trồng trong thời gian tới như: vùng trồng dưa chuột xã Tiên Thanh - huyện Tiên Lãng; các vùng trồng khoai tây tại xã Bạch Đằng, Quyết Tiến - huyện Tiên Lãng; một số vùng rau tại xã Đại Hà - huyện Kiến Thụy;...
Ước tính diện tích nhiễm sinh vật gây hại là 44,8 ha, các diện tích nhiễm sinh vật gây hại cơ bản đã được nông dân phòng trừ hiệu quả, không gây ảnh hưởng tới năng suất cây vụ Đông.
* Chăn nuôi
Ước tính tháng 11 năm 2022, số lượng gia súc, gia cầm trên địa bàn thành phố hiện có như sau: Tổng đàn trâu ước đạt 4.167 con, giảm 5,08% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò ước đạt 7.730 con, giảm 5,57%.
Tổng đàn lợn toàn thành ước đạt 151,28 nghìn con, giảm 1,70% so với cùng kỳ năm trước. Giá thịt lợn hơi xuất chuồng bình quân đạt 58,95 nghìn đồng/kg, giảm 9,54% so với tháng trước.
Tổng đàn gia cầm trong tháng ước đạt 8.817,2 nghìn con, tăng 0,86%, trong đó đàn gà ước đạt 6.867,8 nghìn con, tăng 4,45% so với cùng kỳ năm trước. Giá thịt gia cầm các loại cũng giảm theo giá thịt lợn hơi, trong đó gà ta thịt hơi khoảng 97,92 nghìn đồng/kg, giảm 0,61%, gà công nghiệp lông trắng thịt hơi 42,0 nghìn đồng/kg, giảm 1,17% so với tháng trước. Giá các loại thịt hơi xuất chuồng giảm do nguồn cung các sản phẩm sẵn có, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người dân.
4.2. Lâm nghiệp
Tháng 11 năm 2022, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 121,4 m3, tăng 45,38% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác ước đạt 3.982,3 ste, tăng 16,51%.
Ước tính 11 tháng năm 2022 sản lượng gỗ khai thác đạt 1.170,1 m3, giảm 3,40% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng củi khai thác đạt 34.869,2 ste, giảm 4,47%. Công tác chăm sóc, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản thường xuyên được tăng cường, chú trọng triển khai thực hiện đã phát huy hiệu quả tích cực, góp phần bảo vệ tài nguyên rừng trên địa bàn thành phố.
4.3. Thủy sản
Sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản tháng 11 năm 2022 ước đạt 16.318,8 tấn, tăng 2,30% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2022, sản lượng nuôi trồng và khai thác thủy sản ước đạt 175.750,2 tấn, tăng 2,16% so với cùng kỳ năm trước.
* Nuôi trồng
Diện tích nuôi trồng thủy sản tháng 11 năm 2022 ước đạt 6.626,0 ha, tăng 0,69% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 11 tháng năm 2022, diện tích nuôi trồng thủy sản ước đạt 11.943,7 ha, tăng 1,24%.
Nhìn chung, diện tích nuôi trồng thủy sản của thành phố hiện nay có xu hướng ổn định và khó mở rộng diện tích sản xuất bởi thành phố có chủ trương thu hồi các diện tích nuôi thủy sản phục vụ giải phóng mặt bằng cho các dự án phát triển công nghiệp, du lịch và giao thông trọng điểm.
Sản lượng nuôi trồng thủy sản thu hoạch tháng 11 năm 2022 ước đạt 7.429,8 tấn, tăng 1,53% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 11 tháng năm 2022 sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 68.773,9 tấn, tăng 1,86%, chia ra: cá các loại đạt 46.715,8 tấn, tăng 2,37%; tôm các loại đạt 6.276,7 tấn, tăng 1,75%; thủy sản khác đạt 15.781,4 tấn, tăng 0,43%.
Khu vực nuôi nước ngọt chủ động các biện pháp phòng tránh rét, lưu giữ giống thủy sản qua đông, phòng chống dịch bệnh, tích cực chăm sóc đàn thủy sản nuôi thương phẩm, thu hoạch sản phẩm đạt yêu cầu (tôm càng xanh, cá trắm đen, trắm cỏ, rô phi…) phục vụ tiêu dùng của người dân.
Khu vực nuôi nước lợ, cải tạo ao đầm xử lý nguồn nước để chuẩn bị thả nuôi tôm thẻ chân trắng vụ Đông. Tại các diện tích ương nuôi tôm thẻ chân trắng giai đoạn 1, sau 30 ngày tôm phát triển ổn định trong hệ thống ao/bể ương nhà bạt, kích cỡ trung bình đạt 400 - 500 con/kg. Một số đầm thả nuôi sớm đã chuyển sang ương nuôi giai đoạn 2; sau 50 - 60 ngày, tôm đạt kích cỡ 160 - 200 con/kg. Các đầm nuôi quảng canh cải tiến thu tỉa các đối tượng tôm sú, cua, cá nước lợ, tiếp tục chăm sóc đàn thủy sản đã thả nuôi.
* Khai thác
Sản lượng khai thác thủy sản tháng 11 năm 2022 ước đạt 8.889,0 tấn, tăng 2,96% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 11 tháng đầu năm 2022, sản lượng thủy sản khai thác của toàn thành phố ước đạt 106.976,3 tấn, tăng 2,36% so với cùng kỳ năm trước.
Theo dự báo hoạt động sản xuất trên biển, các loại cá vẫn có xu hướng di cư thẳng đứng, di chuyển vào vùng gần bờ hơn. Với ngư trường khai thác chính của tàu cá Hải Phòng là vịnh Bắc Bộ, khu vực phía Nam, Bắc và Đông đảo Bạch Long Vĩ với các đối tượng khai thác là mực, cá nổi nhỏ (cá nục, bạc má,…) và một số loại cá đáy (cá bơn, cá hồng…) đội tàu hoạt động quanh khu vực này khai thác đạt sản lượng tăng khá cao.
Các địa phương tích cực tuyên truyền đến chủ tàu, thuyền, khuyến cáo ngư dân thường xuyên theo dõi thông tin dự báo thời tiết, dự báo ngư trường nguồn lợi để có kế hoạch sản xuất an toàn, hiệu quả.
5. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố tháng Mười một ước đạt khá cao, tăng 5,96% so với tháng 10 và tăng 21,05% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 22,18% so với cùng kỳ, ngành cung cấp nước, xử lý rác thải tăng 14,86%, còn lại 2 ngành có tăng trưởng âm là ngành khai khoáng giảm 34%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 7,57%.
Tính chung 11 tháng đầu năm nay, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 14,15% so với cùng kỳ năm trước (năm 2018 tăng 25,86%; năm 2019 tăng 24,3%; năm 2020 tăng 14,41%; năm 2021 tăng 18,47%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,08% đóng góp 14,33 điểm phần trăm và ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 7,58% đóng góp 0,08 điểm phần trăm vào mức tăng chung; hai ngành có chỉ số giảm là ngành khai khoáng giảm 19,1% và ngành sản xuất, phân phối điện giảm 2,96% tác động làm giảm tương ứng 0,04 và 0,21 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong 11 tháng đầu năm nay, trong 59 ngành công nghiệp cấp 4, nhiều ngành công nghiệp trọng điểm tăng trưởng cao so với cùng kỳ, như: sản xuất hàng may sẵn tăng gấp 5,4 lần; sản xuất thủy tinh và sản phẩm từ thủy tinh tăng 3,8 lần; sản xuất máy vi tính và thiết bị ngoại vi của máy vi tính tăng 4,3 lần với cùng kỳ; sản xuất linh kiện điện tử tăng 37,23%; sản xuất máy chuyên dụng tăng 57,57%; sản xuất mỹ phẩm xà phòng, chất tẩy rửa tăng 32,64%; sản xuất mô tô, xe máy tăng 54,8%; sản xuất săm, lốp cao su tăng 45,39%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 42,91%;... Một số ngành có mức tăng khá hoặc tăng một con số: chế biến và bảo quản thủy sản tăng 28,31%; sản xuất máy nông nghiệp và lâm nghiệp tăng 4,21%; sản xuất đồ chơi, trò chơi tăng 3,95%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 7,5%;... Tuy nhiên, ở chiều ngược lại một số ngành có chỉ số sản xuất giảm như: sản xuất gỗ dán, gỗ lạng, ván ép giảm 60,65%; sản xuất pin và ắc quy giảm 31,88%; sản xuất phân bón và hợp chất ni tơ giảm 31,13%; sản xuất xe có động cơ giảm 28,6%; khai thác đá, cát, sỏi đất sét giảm 19,1%; sản xuất đồ điện dân dụng giảm 8,78%;...
* Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 11/2022 ước giảm 1,85% so với tháng trước và tăng 25,15% so với cùng kỳ năm trước; cộng dồn 11 tháng/2022 chỉ số tiêu thụ ước tăng 22,04% so với cùng kỳ, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng rất cao (trên 200%) so cùng kỳ như: sản xuất hàng may sẵn tăng 5,8 lần; sản xuất plastic, cao su tổng hợp dạng nguyên sinh tăng 3,2 lần; chế biến bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản tăng 2,06 lần.
Một số ngành có mức tăng cao: sản xuất săm, lốp cao su; đắp và tái chế lốp cao su tăng 44,26%; sản xuất các loại hàng dệt khác tăng 37,69%... Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng khá như: sản xuất bê tông tăng 22,75%; sản xuất cấu kiện kim loại tăng 15,13%; sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng tăng 33,09%;...
Một số ngành tiếp tục có chỉ số tiêu thụ giảm mạnh nhiều tháng qua như: chế biến gỗ giảm 60,04%; sản xuất phân bón và hợp chất nito giảm 37,99%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 16,19%; sản xuất vải dệt thoi giảm 19,04%;...
* Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 30/11/2022 dự kiến tăng 6,64% so với tháng trước và tăng 26,82% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so cùng kỳ: sản xuất thiết bị truyền thông tăng 3,4 lần; sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 1,9 lần; sản xuất sản phẩm khác bằng kim loại chưa được phân vào đâu tăng 4,6 lần; sản xuất máy móc và thiết bị văn phòng tăng 19,76%; sản xuất xi măng, vôi, thạch cao tăng 32,83%;… Bên cạnh đó có một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so với cùng kỳ như: sản xuất thuốc lá giảm 1,65%; sản xuất bi, bánh răng hộp số, các bộ phận điều khiển và truyền chuyển động giảm 93,24%; sản xuất giày dép giảm 72,72%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 41,58%;...
* Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 11 tháng năm 2022 dự kiến tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: kính nổi và kính đã mài đạt 903,4 nghìn tấn, tăng 3,8 lần; tivi 1.167,7 nghìn chiếc, tăng 83,44%; modun camera trên 194,5 triệu cái tăng 2,1 lần; điện cực kim loại cơ bản (nam châm điện) đạt 9,1 nghìn tấn tăng 62,22%; mạch điện tử tích hợp sản xuất đạt 34,7 triệu chiếc tăng 37,23%; bột giặt và các chế phẩm dùng để tẩy rửa đạt 67,6 nghìn tấn tăng 32,64%; lốp hơi mới bằng cao su sản xuất đạt 2,8 triệu cái tăng 45,39%; máy in offset trên 1,63 triệu chiếc tăng 37,28%; xe máy điện trên 62,1 nghìn chiếc tăng 54,8%; bê tông tươi đạt 876 nghìn m³ tăng 43,3%; cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại sản xuất đạt 11,3 nghìn tấn tăng 31,28%;...
Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ: phân bón chỉ đạt 169,6 nghìn tấn bằng 68.87% (-31,13%); ắc quy điện các loại đạt 336,3 nghìn Kwh giảm 31,88%; bia đóng chai đạt 3,6 triệu lít giảm 35,07%; máy giặt loại không quá 10 kg đạt 1 triệu cái giảm 18,26%;...
* Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/11/2022 dự kiến tăng tăng 0,11% so với tháng 10 và tăng 13,76% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 6,03%; lao động doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 14,29%; lao động doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,44%. Cũng tại thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong ngành khai khoáng giảm 40,79% so với cùng thời điểm năm trước; ngược lại ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao nhất với mức tăng đạt 14,21%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,41%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,58%.
Những ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sử dụng lao động tăng so với cùng kỳ gồm: sản xuất thiết bị điện tăng gấp 171,6%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 75,93%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 54,57%. Những ngành có chỉ số sử dụng lao động giảm: dệt giảm 62,31%; khai khoáng giảm 40,79%; chế biến gỗ giảm 23,02%; sản xuất xe có động cơ giảm 5,27%;...
6. Thương mại, dịch vụ
Sau hai năm bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, dự báo nhu cầu mua sắm, tiêu dùng vào dịp cuối năm sẽ tăng cao. Các đơn vị kinh doanh thương mại, dịch vụ trên địa bàn đã có kế hoạch đảm bảo nguồn cung hàng hóa, đưa ra nhiều chính sách bán hàng, chương trình khuyến mại hấp dẫn. Trong tháng, Sở Công Thương thành phố đã triển khai Kế hoạch tổ chức Chương trình “Tháng khuyến mại Hải Phòng 2022” với chủ đề “Kết nối số, tiêu dùng thông minh” nhằm kích cầu tiêu dùng nội địa, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm hàng hóa.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tháng 11/2022 ước đạt 15.235,6 tỷ đồng, tăng 1,82% so với tháng trước, tăng 12,68% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính 11 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 158.764,9 tỷ đồng, tăng 13,21% so với cùng kỳ năm trước.
* Doanh thu chia theo ngành hoạt động
Hoạt động bán lẻ
Doanh thu tháng 11 ước đạt 12.577,7 tỷ đồng, tăng 2,48% so với tháng trước, tăng 14,01% so với cùng kỳ. Trong đó hầu hết các nhóm ngành hàng đều có ước tính tăng so với tháng trước; cụ thể:
Doanh thu ngành bán lẻ lương thực, thực phẩm tăng 2,61%; hàng may mặc tăng 2,47%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 1,61%; vật phẩm văn hóa giáo dục tăng 0,36%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 4,48%; ô tô con dưới 9 chỗ ngồi tăng 2,97%; phương tiện đi lại khác tăng 3,73%; xăng dầu các loại tăng 3,14%; nhiên liệu khác tăng 2,23%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 2,22%; hàng hóa khác tăng 1,17%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 2,21%.
Ước tính 11 tháng năm 2022, tổng doanh thu bán lẻ đạt 129.761,2 tỷ đồng, tăng 12,90% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu ngành bán lẻ lương thực, thực phẩm tăng tăng 12,24%; hàng may mặc tăng 12,51%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 11,74%; vật phẩm văn hóa giáo dục tăng 13,55%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 12,82%; ô tô con dưới 9 chỗ ngồi tăng 12,75%; phương tiện đi lại khác tăng 12,38%; xăng dầu các loại tăng 15,41%; nhiên liệu khác tăng 14,86%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 12,69%; hàng hóa khác tăng 13,18%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 12,27%.
Tình hình hoạt động bán lẻ hàng hóa tháng 11/2022 tiếp tục tăng trưởng ổn định, không có biến động lớn. Nguồn cung các mặt hàng, nhất là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, nguyên nhiên liệu thiết yếu phục vụ sản xuất luôn được bảo đảm, đáp ứng tốt nhu cầu phục vụ sản xuất, đời sống của người dân và doanh nghiệp, tuy nhiên sức mua còn chậm, theo hướng chủ yếu tập trung vào mặt hàng thiết yếu.
Cho đến nay, các doanh nghiệp đã chuẩn bị sẵn sàng các phương án cung ứng, phục vụ nhu cầu mua sắm Tết của người dân. Khuyến mại đang là một giải pháp kích cầu tiêu dùng dịp cuối năm, đồng thời là một trong những giải pháp hiệu quả, góp phần giúp các doanh nghiệp vượt khó, phục hồi sản xuất, kinh doanh, do đó được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Cũng như hàng năm, năm nay thành phố sẽ tổ chức Tháng Khuyến mại Hải Phòng 2022 bắt đầu từ ngày 15/11/2022 đến 22/12/2022, sẽ có khoảng 25 “Điểm vàng khuyến mại” thực hiện các hoạt động khuyến mại, kích cầu mua sắm đặc biệt dành cho người tiêu dùng tại các hệ thống Siêu thị tổng hợp, Trung tâm thương mại, chuỗi các cửa hàng có thương hiệu và uy tín…
Dự báo với sự diễn ra của các chương trình khuyến mại này, dịp cuối năm 2022 và dịp Tết Nguyên đán Quý Mão 2023, nhu cầu mua sắm sẽ tăng cao hơn so với cùng kỳ năm trước.
Hoạt động dịch vụ
Ước tính doanh thu một số ngành dịch vụ tháng 11 năm 2022 như sau:
- Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 11 năm 2022 ước đạt 164,3 tỷ đồng, giảm 1,42% so với tháng trước và tăng 2,35 lần so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng đầu năm 2022, doanh thu lưu trú đạt 1.871,3 tỷ đồng, tăng 64,74% so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 11 năm 2022 ước đạt 1.734,0 tỷ đồng, giảm 1,02% so với tháng trước và tăng 8,35% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng đầu năm, doanh thu ăn uống đạt 17.980,3 tỷ đồng, tăng 12,75% so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu du lịch lữ hành tháng 11 năm 2022 ước đạt 11,8 tỷ đồng, giảm 1,4% so với tháng trước (cùng tháng năm trước do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên hoạt động du lịch không có doanh thu). Tính chung 11 tháng/2022, dịch vụ du lịch lữ hành đạt 167,9 tỷ đồng, tăng 3,61 lần so với cùng kỳ năm trước.
- Doanh thu dịch vụ khác tháng 11 năm 2022 ước đạt 747,9 tỷ đồng, giảm 1,49% so với tháng trước, giảm 8,68% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó một số ngành so với tháng trước: dịch vụ kinh doanh bất động sản giảm 32,41%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí tăng 95,10%, hoạt động dịch vụ khác tăng 43,14% so với cùng kỳ.
Tính chung 11 tháng đầu năm 2022, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 19.851,55 tỷ đồng tăng 16,20%; hoạt động du lịch lữ hành 167,93 tỷ đồng tăng 3,61 lần và hoạt động dịch vụ khác 8.984,1 tỷ đồng, tăng 9,85% so với cùng kỳ năm 2021.
7. Hoạt động lưu trú và lữ hành
Tổng lượt khách tháng 11/2022 do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 489,8 nghìn lượt, giảm 3,29% so với tháng trước và tăng 3,13 lần so với cùng kỳ; trong đó khách quốc tế đạt 75,8 nghìn lượt, giảm 1,25% so với tháng trước và tăng 13,62 lần so với cùng tháng năm trước.
Cộng dồn 11 tháng/2022, tổng lượt khách do các cơ sở lưu trú và lữ hành thành phố phục vụ ước đạt 6.526,3 nghìn lượt, tăng 82,74% so với cùng kỳ; trong đó khách quốc tế đạt 611,1 nghìn lượt, tăng gấp 10,3 lần so với cùng kỳ năm trước.
Đối với hoạt động lữ hành, lượt khách lữ hành của các cơ sở trên địa bàn thành phố tháng 11/2022 ước đạt 2,7 nghìn lượt, tăng 33% so với tháng trước (cùng kỳ năm trước hoạt động lữ hành không có doanh thu do ảnh hưởng của dịch Covid-19). Cộng dồn 11 tháng đầu năm 2022, lượt khách du lịch do các cơ sở lữ hành trên địa bàn thành phố phục vụ ước đạt gần 77,6 nghìn lượt, tăng 3,02 lần so với cùng kỳ.
8. Giao thông vận tải
Tổng doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và dịch vụ bưu chính, chuyển phát dự kiến tháng 11 đạt 10.006,1 tỷ đồng, tăng 4,15% so với tháng trước và tăng 6,45% so cùng kỳ. Tính chung 11 tháng đầu năm ước đạt 95.667,1 tỷ đồng, tăng 16,46% so với cùng kỳ năm trước.
8.1. Vận tải hàng hoá
Khối lượng hàng hoá vận chuyển tháng 11 năm 2022 ước đạt 24,2 triệu tấn, tăng 3,03% so với tháng trước và tăng 2,75% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 11 tháng đầu năm năm 2022 đạt 248,6 triệu tấn, tăng 14,89% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hàng hóa luân chuyển tháng 11 năm 2022 ước đạt 10.091,8 triệu tấn.km, tăng 2,13% so với tháng trước và giảm 2,57% so với cùng tháng năm trước. Ước tính 11 tháng đầu năm 2022 đạt 105.293,8 triệu tấn, tăng 9,29% so với cùng kỳ năm trước.
Tháng 11 được coi là một trong những tháng cao điểm trong việc sản xuất và cung ứng hàng hóa ra thị trường nhằm phục vụ nhu cầu của người dân vào Tết dương lịch và Tết Nguyên đán, ngoài ra các công trình xây dựng cũng đang vào giai đoạn gấp rút hoàn thành do đó nhu cầu vận chuyển hàng hóa, nguyên vật liệu trong tháng tăng cao.
8.2. Vận tải hành khách
Khối lượng hành khách vận chuyển tháng 11 năm 2022 ước đạt 4,6 triệu lượt, tăng 0,32% so với tháng trước, tăng 2,14 lần so với cùng tháng năm trước. Ước tính 11 tháng đầu năm 2022 đạt 38,7 triệu lượt, tăng 25,65% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hành khách luân chuyển tháng 11 năm 2022 đạt 192,8 triệu Hk.km, tăng 0,1% so với tháng trước, tăng 118,88% so với cùng tháng năm trước. Ước 11 tháng năm 2022 đạt 1.593,3 triệu Hk.km, tăng 25,97% so với cùng kỳ năm trước.
Khối lượng hành khách vận chuyển và luân chuyển tháng 11 tăng so với tháng trước tăng nhẹ chủ yếu ở khối đường bộ do nhu cầu khách đi lại bằng xe khách, taxi tăng; tuy nhiên lượng hành khách ven biển tiếp tục giảm do thời tiết vào mùa lạnh nên lượt khách tham quan, du lịch biển giảm so với tháng trước.
8.3. Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải
Doanh thu dịch vụ kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 11 năm 2022 ước đạt 5.011,1 tỷ đồng, tăng 5,23% so với tháng trước và tăng 6,99% so với cùng tháng năm trước. Ước 11 tháng đầu năm 2022 doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 46.030,1 tỷ đồng, tăng 15,08% so với cùng kỳ năm trước.
8.4. Sân bay Cát Bi
Tháng 11 năm 2022, tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 23,8 tỷ đồng, giảm 10,16% so với tháng trước, tăng 7,19 lần so với cùng kỳ. Cộng dồn 11 tháng đầu năm, tổng doanh thu của Sân bay Cát Bi ước đạt 280,1 tỷ đồng, tăng 3,13 lần so với cùng kỳ.
Số lần máy bay hạ, cất cánh tháng 11 năm 2022 ước đạt 1.534 chuyến, giảm 2,54% so với tháng trước, tăng 5,23 lần so với cùng tháng năm trước. Cộng dồn 11 tháng, số lần máy bay hạ, cất cánh ước đạt 17.287 chuyến, tăng 2,72 lần so với cùng kỳ.
Tổng số hành khách tháng 11 năm 2022 ước đạt 225 nghìn lượt người, giảm 7,39% so với tháng trước, tăng 9,58 lần so với cùng tháng năm trước. Cộng dồn 11 tháng/2022, tổng số hành khách vận chuyển ước đạt 2.732,1 nghìn lượt người, tăng 3,56 lần so với cùng kỳ năm trước.
Tổng số hàng hóa tháng 11 năm 2022 ước đạt 920 tấn, giảm 16,67% so với tháng trước. Cộng dồn 11 tháng/2022, tổng số hàng hóa ước đạt 10.393 tấn, tăng 35,38% so với cùng kỳ.
9. Hàng hoá thông qua cảng
Sản lượng hàng hóa thông qua cảng tháng 11 năm 2022 ước đạt 17.847,8 nghìn TTQ, giảm 0,77% so với tháng trước và tăng 13,29% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể:
- Khối cảng thuộc kinh tế Nhà nước ước đạt 5.301,8 nghìn TTQ, tăng 12,54% so với tháng trước, tăng 1,26% so với cùng kỳ.
- Các cảng thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước ước đạt 12.546 nghìn TTQ, giảm 5,49% so với tháng trước, tăng 19,28% so với cùng kỳ năm 2021.
Hàng hóa thông qua cảng biển trên địa bàn thành phố 11 tháng/năm 2022 ước đạt 149.053,3 nghìn tấn, tăng 12,78% so với cùng kỳ.
* Doanh thu cảng biển tháng 11 năm 2022 của khối cảng trên địa bàn thành phố ước đạt 569 tỷ đồng, giảm 4,87% so với tháng trước, tăng 18,19% so với cùng kỳ. Doanh thu cảng biển 11 tháng đầu năm 2022 ước đạt 6.047,5 tỷ đồng, tăng 13,91% so với cùng kỳ năm 2021.
II. VĂN HÓA - XÃ HỘI
Đại dịch Covid-19 hiện nay cơ bản đã được kiểm soát so với thời điểm đầu năm 2022, đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội được chính quyền các cấp quan tâm, các chính sách an sinh xã hội được triển khai kịp thời, hiệu quả đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
1. Giải quyết việc làm, an sinh xã hội
* Công tác Lao động, việc làm
Trong tháng 11/2022, Sàn giao dịch việc làm tổ chức 06 phiên giao dịch việc làm, có trên 160 lượt doanh nghiệp tham gia với nhu cầu tuyển dụng khoảng 7.500 lao động; cung lao động tại Sàn trên 14.000 lượt người; tiếp nhận hồ sơ đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp ước cho 1.910 người, số người có quyết định hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp ước đạt 2.010 người. Ước cấp mới 300 giấy phép lao động, cấp lại 10 giấy phép lao động, gia hạn 02 giấy phép lao động, xác nhận 01 lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Hướng dẫn tiếp nhận Thỏa ước lao động tập thể của 17 doanh nghiệp và ra thông báo thực hiện Nội quy lao động cho 06 doanh nghiệp. Không xảy ra đình công, tai nạn lao động trong kỳ báo cáo.
Trong 11 tháng năm 2022, ước tổ chức 31 phiên giao dịch việc làm với sự tham gia tuyển dụng của trên 1.050 lượt doanh nghiệp tham gia với nhu cầu tuyển dụng khoảng trên 208.200 lượt lao động; cung lao động tại sàn được 110.050 lượt người. Số người đến nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp ước là 18.900 người, tăng 11,35% so với cùng kỳ năm 2021; số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp là 17.610 người, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2021; qua giải quyết chế độ thất nghiệp đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho 18.900 người, tăng 11,35% so với cùng kỳ năm 2021. Ước cấp mới 3.950 giấy phép lao động, cấp lại 197 giấy phép lao động, gia hạn 47 giấy phép lao động, xác nhận 30 lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động.
Tiếp nhận và giải quyết 229 bộ hồ sơ đăng ký kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hóa, bao gồm 95 bộ thiết bị nâng, 135 bộ thiết bị áp lực. Tiếp nhận khai báo sử dụng máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt của 205 bộ hồ sơ của 202 đơn vị, doanh nghiệp khai báo. Triển khai kiểm tra công tác việc làm, an toàn, vệ sinh lao động và lao động nước ngoài: đã thực hiện việc kiểm tra 30 đơn vị, doanh nghiệp.
Đến thời điểm báo cáo, thành phố xảy ra 03 cuộc đình công, ngừng việc tập thể, khoảng 2.880 lao động tham gia; xảy ra 13 vụ tai nạn lao động làm chết 14 người.
* Công tác giáo dục nghề nghiệp
Trong tháng 11/2022, báo cáo Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, Ban tuyên giáo Thành ủy kết quả bồi dưỡng, tập huấn chính trị hè cho đội ngũ giảng viên, giáo viên các trường cao đẳng, trường trung cấp và sinh hoạt đầu khóa cho học sinh sinh viên trên địa bàn thành phố năm 2022; báo cáo kết quả tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày Kỹ năng lao động Việt Nam năm 2022; báo cáo kết quả thực hiện cam kết, giải quyết chất vấn tại kỳ họp thứ 6 Hội đông nhân dân thành phố khóa XVI; trình UBND thành phố văn bản chỉ đạo tổ chức các hoạt động tôn vinh, tri ân nhà giáo giáo dục nghề nghiệp nhân dịp Kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam.
Trong 11 tháng năm 2022, hoàn thành việc tổ chức Hội thi thiết bị đào tạo tự làm thành phố năm 2022 với 34 thiết bị dự thi từ 11 cơ sở GDNN. Tổ chức thẩm định trình UBND thành phố xếp hạng cho 05 cơ sở GDNN công lập thuộc thành phố. Báo cáo Tổng cục GDNN việc thực hiện quy định hệ thống đảm bảo chất lượng của cơ sở GDNN năm 2021 và kết quả tuyển sinh, đào tạo GDNN trên địa bàn thành phố năm 2021 theo quy định; đề xuất hồ sơ đề nghị tuyên dương học sinh, sinh viên GDNN xuất sắc, tiêu biểu năm 2022. Thẩm định, cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động GDNN cho 01 trường trung cấp; 01 Trung tâm GDNN và cho 03 doanh nghiệp, cấp giấy chứng nhận đăng ký bổ sung hoạt động DNN cho 01 trường Trung cấp.
Đế thời điểm báo cáo, mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn thành phố gồm 44 cơ sở GDNN (19 trường cao đẳng, 12 trường trung cấp, 13 trung tâm GDNN) và 25 cơ sở hoạt động GDNN (14 trung tâm GDNN và GDTX quận, huyện và 11 doanh nghiệp). Tuyển sinh GDNN ước đạt 44.750 học sinh - sinh viên, đạt 85% kế hoạch năm và bằng 113% so với cùng kỳ năm 2021; tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 85,8% tăng 0,4% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo chứng chỉ, bằng cấp từ 3 tháng trở lên đạt 36,7% tăng 1% so với cùng kỳ năm 2021.
* Công tác người có công
Trong tháng 11/2022, quyết định, đề nghị thực hiện chính sách đối với 619 trường hợp, gồm: trợ cấp mai táng phí đối với 320 người; trợ cấp hàng tháng đối với 110 người; chế độ thờ cúng liệt sĩ đối với 188 người; quyết định điều chỉnh trợ cấp bệnh binh đối với 01 trường hợp. Tiếp nhận, thẩm định để thực hiện chính sách và phục vụ công tác quản lý đối với 107 trường hợp. Xác nhận, công nhận người có công và quyết định cho hưởng chế độ đối với 74 trường hợp. Tham mưu thành phố phương án tặng quà người có công nhân dịp Tết Nguyên đán 2023: trình thành phố phương án tặng quà, danh mục mua sắm quà đối tượng người có công, mẫu thiệp và phong bì chúc mừng năm mới của thành phố tặng các đối tượng chính sách nhân dịp Tết Nguyên đán 2023.
Trong 11 tháng năm 2022, giải quyết chế độ chính sách đối với 3.271 trường hợp, gồm: trợ cấp một lần đối với 2.350 người; trợ cấp hàng tháng đối với 335 người; chế độ thờ cúng liệt sĩ đối với 586 người. Tiếp nhận, thẩm định để thực hiện chính sách và phục vụ công tác quản lý đối với 7.323 trường hợp. Xác nhận, công nhận người có công, quyết định cho hưởng chế độ đối với 343 trường hợp. Cung cấp kết quả thẩm định danh sách hộ người có công hỗ trợ nhà ở theo chủ đề nghị của Sở Xây dựng 08 đợt với tổng số 1.090 hộ. Cung cấp thông tin liệt sĩ 20 trường hợp. Giải quyết đơn thư theo thẩm quyền đối với 69 trường hợp.
* Công tác Giảm nghèo - Bảo trợ xã hội
Trong tháng 11/2022, triển khai Kế hoạch rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn thành phố năm 2022 theo chuẩn nghèo quốc gia áp dụng cho giai đoạn 2022-2025; tiếp tục hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị quyết quy định chính sánh hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế các nhóm đối tượng xã hội giai đoạn 2022-2025 trên địa bàn thành phố Hải Phòng; tăng cường công tác giải quyết tình trạng người lang thang góp phần đảm bảo an toàn giao thông, đảm bảo mỹ quan đô thị thành phố. Tổng số lượt người lang thang tập trung trong tháng là 43 lượt người lang thang, tiếp nhận them 03 đối tượng vào Trung tâm điều dưỡng người tâm thần.
Trong 11 tháng năm 2022, đã tiếp nhận 93 đối tượng vào trung tâm nuôi dưỡng bảo trợ xã hội. Tổng số lượng các đối tượng tại các cơ sở trợ giúp xã hội là 755 người. Tập trung người lang thang trên địa bàn thành phố đạt 353 lượt người. Thẩm định danh sách hộ nghèo có nhu cầu xây mới, sửa chữa nhà ở gửi Sở Xây dựng tổng hợp, trình Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt 1.002 hộ nghèo đủ điều kiện xây mới, sửa chữa nhà ở theo Nghị quyết 52/2019/NQ-HĐND ngày 09/12/2019 của Hội đồng nhân dân thành phố; dự kiến số tiền hỗ trợ là 27.900 triệu đồng.
* Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội
Trong tháng 11/2022, tổ chức tiếp nhận, cai nghiện ma túy tập trung cho 21 người; số người nghiện ma túy đang quản lý tại các Cơ sở cai nghiện mà túy và Trường Lao động xã hội Thanh Xuân là 837 người, cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 22 người. Điều trị Methadone toàn thành phố (18 cơ sở) cho 3.980 người, trong đó ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đang quản lý 06 cơ sở điều trị cho 1.218 người. Đoàn kiểm tra 178 thành phố đã tiến hành kiểm tra 03 buổi tại 09 cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú.
Trong 11 tháng năm 2022, tổ chức tiếp nhận, cai nghiện ma túy tập trung cho 2.229 lượt người (bằng 111,7% so với cùng kỳ năm trước); cai nghiện tại gia đình và cộng đồng cho 242 người (bằng 109,5% so với cùng kỳ năm trước). Điều trị Methadone toàn thành phố (18 cơ sở) cho 3.980 người, trong đó ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đang quản lý 06 cơ sở điều trị cho 1.453 người (bằng 97,71% so với cùng kỳ năm trước). Tổ chức xét nghiệm ma túy 02 đợt cho 84 đối tượng, kết quả có 23 trường hợp dương tính với chất ma túy.
2. Giáo dục - Đào tạo
Trong tháng 11/2022, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng tổ chức Lễ biểu dương học sinh, sinh viên xuất sắc tiêu biểu thành phố Hải Phòng năm 2022, biểu dương, tôn vinh 167 học sinh, sinh viên xuất sắc tiêu biểu, trong đó có: 70 học sinh đạt giải Nhất, Nhì, Ba quốc gia các môn văn hoá, khoa học kỹ thuật năm học 2021 - 2022, Chung kết Đường lên đỉnh Olympia năm 2022; viết thư quốc tế UPU lần thứ 51 năm 2022. 53 học sinh tham gia Kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông năm 2022 tại thành phố Hải Phòng đạt điểm cao và đỗ vào 01 trường đại học/học viện trong và ngoài nước. 44 sinh viên tốt nghiệp thủ khoa loại giỏi trở lên tại các trường đại học trên địa bàn thành phố và sinh viên là người Hải Phòng tốt nghiệp thủ khoa loại giỏi trở lên tại các trường đại học/học viện trong cả nước.
Trong tháng, Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam, đón nhận khen thưởng cấp Nhà nước, vinh danh Nhà giáo tâm huyết sáng tạo và khai trương cơ sở dữ liệu ngành giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó, phối hợp với Viettel Hải Phòng chính thức khai trương “Hệ thống trục tích hợp chia sẻ dữ liệu Ngành Giáo dục Hải Phòng”, đây là Hệ thống hỗ trợ thu thập, tổng hợp, phân tích, chia sẻ số liệu từ các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên, hướng đến mục tiêu phục vụ hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của toàn ngành. Với các tính năng như: thu thập, chia sẻ dữ liệu và quản lý các API kết nối, trục CSDL ngành đóng vai trò như chiếc cầu nối, hỗ trợ liên thông, chuẩn hóa dữ liệu giữa các giải pháp công nghệ thông tin hiện được ứng dụng trên toàn thành phố.
3. Y tế và An toàn vệ sinh thực phẩm
* Công tác y tế dự phòng
Công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19
Trong tháng 11/2022, thành phố chủ động nhận định tình hình dịch bệnh trong nước và thế giới để tham mưu xây dựng kế hoạch phòng chống dịch phù hợp với bối cảnh thực tế. Đẩy nhanh tiến độ tiêm vắc xin mũi bổ sung, mũi nhắc lại và vắc xin cho các đối tượng có nguy cơ cao, đảm bảo an toàn, hiệu quả; áp dụng linh hoạt công tác phòng chống dịch, từng bước giảm các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 nhưng không lơ là trong công tác chữa trị và cách ly những trường hợp mắc mới.
*Công tác phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm khác
Tình hình các bệnh truyền nhiễm gây dịch trong toàn thành phố ước tháng 11 và 11 tháng năm 2022, sốt xuất huyết ghi nhận 1.046 ca, tích lũy 11 tháng là 1.832 ca; bệnh thủy đậu ghi nhận 13 ca, tích lũy 10 tháng là 120 ca; bệnh chân tay chân miệng ghi nhận 41 ca, tích lũy 11 tháng là 985 ca; bệnh quai bị ghi nhận 04 ca, tích lũy 11 tháng là 27 ca; bệnh tiêu chảy ghi nhận 92 ca, tích lũy 11 tháng là 879 ca; hội chứng lỵ ghi nhận 18 ca, tích lũy 11 tháng là 97 ca; cúm ghi nhận 326 ca, tích lũy 11 tháng là 2.194 ca; sởi không ghi nhận ca bệnh, tích lũy 11 tháng là 01 ca; bệnh liên cầu lợn ở người không ghi nhận ca bệnh; bệnh viêm não vi rút không ghi nhận ca bệnh, tích lũy 11 tháng là 14 ca.
* Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm
Trong tháng 11/2022, thành phố thực hiện kiểm tra định kỳ, với tổng số 158 cơ sở được kiểm tra, đã xử phạt 06 cơ sở với số tiền là 36 triệu đồng. Không kiểm thực hiện kiểm tra đột xuất.
Trong 11 tháng năm 2022, kiểm tra định kỳ với tổng số 49 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống tại Đồ Sơn và Cát Bà năm đã xử phạt 02 cơ sở với số tiền 16 triệu đồng. Kiểm tra 47 cơ sở kinh doanh nước uống đóng chai, nước đá dùng liền đã xử phạt 02 cơ sở với số tiền 25 triệu đồng.
* Công tác phòng chống HIV/AIDS
Ước tính 11 tháng năm 2022, số người nhiễm HIV mới là 112 người; số người chuyển sang AIDS là 27 người, số người tử vong là 35 người; số người nhiễm HIV hiện còn sống là 6.254 người. Số liệu dịch trong tháng báo cáo giảm về số nhiễm HIV và chuyển sang AIDS và số ca tử vong tương đương cùng kỳ năm ngoái. Tính đến thời điểm báo cáo, Ngành y tế đang điều trị Methadone cho 2.777 bệnh nhân; đề án Thí điểm cấp phát thuốc Methadone nhiều ngày đã cấp cho 700 bệnh nhân tại 08 cơ sở điều trị.
4. Văn hóa - Thể thao
Trong tháng 11/2022, Sở Văn hóa và Thể thao Hải Phòng phối hợp với Hội Cổ vật, Hội Tiền cổ tổ chức khai mạc triển lãm “Di sản văn hóa thành phố Hải Phòng”. Đây là một hoạt động giàu ý nghĩa và thiết thực chào mừng Ngày Di sản Việt Nam; trưng bày hơn 100 hình ảnh, tư liệu, bản trích thống kê; gần 100 hiện vật cổ vật và 50 hiện vật tiền cổ, xu cổ giới thiệu đến người xem di sản văn hóa, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh tiêu biểu, đặc sắc của thành phố Hải Phòng và những hiện vật, cổ vật, tiền cổ được phát hiện, sưu tầm từ rất nhiều năm trước đây.
Đoàn Ca múa Hải Phòng biểu diễn tại xã Việt Hải, huyện Cát Hải. Đây là đoàn nghệ thuật đầu tiên của thành phố thực hiện chương trình lưu diễn theo Đề án Sân khấu truyền hình tại xã Việt Hải nơi vùng hải đảo xa xôi của thành phố. Các tác phẩm, chương trình nghệ thuật thuộc Đề án Sân khấu truyền hình Hải Phòng không chỉ được biểu diễn và phát sóng trên truyền hình mà còn được các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của thành phố tổ chức đi lưu diễn tại các địa phương, các địa bàn xa xôi, các khu vực huyện đảo của thành phố.
Trong tháng, tại thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng, Hội nghệ sỹ sân khấu Việt Nam tổ chức Liên hoan quốc tế sân khấu thử nghiệm lần V, Liên hoan quy tụ 15 đơn vị nghệ thuật trong nước và 6 đơn vị nghệ thuật nước ngoài đến từ những quốc gia có nền kịch nghệ rất phát triển như: Ý, Hàn Quốc, Ba Lan, Singapore, Pakistan, Ấn độ. Trong đó có 03 đoàn nghệ thuật của thành phố Hải Phòng tham gia Liên hoan gồm: Đoàn Kịch nói Hải Phòng, Đoàn Nghệ thuật Múa rối Hải Phòng và Câu lạc bộ Sân khấu biển hẹn.
5. Tình hình trật tự an toàn giao thông
Từ ngày 15/10/2022 đến ngày 14/11/2022, toàn thành phố xảy ra 06 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 05 người chết và 03 người bị thương. Số vụ tai nạn giao thông giảm 01 vụ, số người chết giảm 01 người so với cùng kỳ năm trước, số người bị thương tăng 02 người so với cùng kỳ năm trước. Các vụ tai nạn chủ yếu từ va chạm cá nhân, do người dân chưa chấp hành đúng luật, không tuân thủ các biện pháp đảm bảo an toàn giao thông.
Trong 11 tháng năm 2022, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 52 vụ tai nạn giao thông đường bộ, 01 vụ tai nạn giao thông đường sắt; 01 vụ tai nạn giao thông đường thủy; các vụ tai nạn giao thông làm chết 45 người và bị thương 16 người. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 11 vụ với cùng kỳ năm ngoái (tương ứng giảm 16,92%), số người chết giảm 08 người (tương ứng giảm 15,09%) và số người bị thương giảm 14 người (tương ứng giảm 46,67%).
6. Công tác phòng chống cháy, nổ
Từ ngày 15/10/2022 đến ngày 14/11/2022, trên địa bàn thành phố Hải Phòng đã xảy ra 11 vụ cháy, không có người chết và người bị thương, giá trị thiệt hại về tài sản đang trong quá trình xác minh.
Trong 11 tháng năm 2022, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 75 vụ cháy, nổ; tăng 02 vụ so với cùng kỳ năm trước (tương ứng tăng 2,74%), làm 03 người chết tương đương cùng kỳ năm trước và 03 người bị thương giảm 07 người so với cùng kỳ năm trước (tương ứng giảm 70%), nguyên nhân các vụ cháy chủ yếu do tình trạng bất cẩn trong cách sử dụng các thiết bị có nguy cơ cháy, nổ cao; một số vụ cháy thảm thực bì rừng gây thiệt hại ước tính là 8,1 ha, các vụ cháy khác đang trong quá trình điều tra, xác định giá trị thiệt hại về tài sản. Trong thời gian tới, thành phố tiếp tục chú trọng tăng cường phối hợp liên ngành để kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy tại các địa bàn, cơ sở trọng điểm dễ xảy ra cháy nổ, xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định về phòng cháy chữa cháy./.
Cục Thống kê thành phố Hải Phòng