Tình hình kinh tế-xã hội tháng 10 năm 2023 của tỉnh Đồng Nai
1. Sản xuất công nghiệp
Tình hình sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng 10 vẫn đang gặp khó khăn như các tháng đầu năm, do tình hình bất ổn chính trị trên thế giới, tình hình chiến tranh Dải Gaza bùng phát có nguy cơ lan rộng, Nga và Ucraina vẫn diễn biến hết sức phức tạp; tình hình lạm phát trên thế giới, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng, giá nhiên liệu tăng từ đó ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn. Nhiều doanh nghiệp gặp nhiều khó do thiếu đơn hàng đặc biệt là các ngành sản xuất đồ gỗ, dệt may, da giày, điện tử v.v…, các doanh nghiệp đã nỗ lực tìm kiếm, khai thác thị trường tiêu thụ sản phẩm để duy trì sản xuất, vì vậy dự ước tháng 10 chỉ số sản xuất công nghiệp vẫn tăng so tháng trước tuy nhiên tăng thấp.
- Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 10/2023 tăng 1,53% so tháng trước, Trong đó: Khai khoáng bằng 100%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,2%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước tăng 13,62%; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước giảm 0,03%.
- Dự ước chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng năm 2023 tăng 4,61% so cùng kỳ đây là mức tăng thấp nhất so với 10 tháng của nhiều năm qua; trong đó ngành khai khoáng tăng 4,75%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,38%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước giảm 25,18% (đây là ngành có mức giảm nhiều nhất do các Doanh nghiệp sản xuất điện năm 2023 có kế hoạch sản xuất giảm); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước tăng 6,82%; Dự ước 10 tháng năm 2023 có 22/27 ngành sản xuất công nghiệp tăng so cùng kỳ nhưng hầu hết tăng thấp: Ngành chế biến thực phẩm, đồ uống; Dệt; Sản xuất trang phục; Sản xuất da và các sản phẩm liên quan; Sản phẩm kim loại, sản xuất máy móc thiết bị.v.v. đây là những ngành công nghiệp chủ lực gặp khó khăn tăng trưởng thấp nên ảnh hưởng không nhỏ đến chỉ số sản xuất toàn ngành. Dự báo tình hình sản xuất công nghiệp những tháng cuối năm 2023 còn tiếp tục gặp khó khăn, chưa có dấu hiệu khả quan hơn.
Một số ngành công nghiệp chủ lực có chỉ số sản xuất 10 tháng năm 2023 đạt mức tăng khá so cùng kỳ như: Sản xuất đồ uống tăng 7,25%, Chế biến thực phẩm tăng 5,84%; Dệt tăng 4,61%; May mặc tăng 6,13%; sản xuất hóa chất tăng 4,81%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 8,26%.v.v…một số ngành sản xuất khác chỉ số sản xuất tăng như: sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 7,29%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 5,24%; sản xuất kim loại đúc sẵn tăng 11,55%; sản xuất thiết bị điện tăng 5,92%, sản xuất máy móc thiết bị chưa phân vào đâu tăng 6,39%.v.v… Tuy nhiên mức tăng trưởng của các ngành này 10 tháng năm nay thấp hơn rất nhiều so với các năm trước.
Một số ngành sản xuất dự ước chỉ số sản xuất 10 tháng giảm so cùng kỳ như: Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế (-1,93%); Sản xuất và phân phối điện, khí đột, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí (-10,22%) … nguyên nhân giảm do ảnh hưởng nguyên liệu đầu vào tăng cao, sản phẩm tiêu thụ khó khăn do đơn hàng sản xuất giảm mạnh, đặc biệt ngành sản xuất giường tủ, bàn ghế nhiều doanh nghiệp từ đầu năm đến nay đơn hàng rất ít, chưa có đơn hàng mới nên chỉ số sản xuất giảm mạnh so cùng kỳ. Riêng ngành sản xuất phân phối điện sản lượng sản xuất giảm so cùng kỳ do kế hoạch sản xuất theo phân bổ của tập đoàn Điện lực Việt Nam năm nay giảm đáng kể, ngành sản xuất phân phối điện ở Đồng Nai chiếm tỷ trọng khá lớn nhưng ngành điện giảm đã ảnh hưởng đáng kể đến chỉ số sản xuất toàn ngành.
- Chỉ số sản phẩm công nghiệp: Dự ước tháng 10 năm 2023 có 22/24 sản phẩm chủ yếu tăng so với tháng cùng kỳ năm trước như: Cà phê các loại đạt 36,3 ngàn tấn, tăng 2,66%; thức ăn gia súc đạt 241,8 nghìn tấn, tăng 5,98%; nước ngọt các loại 22,5 triệu lít, tăng 6,68%; vải các loại đạt 47,3 triệu m2, tăng 6,82%, quần áo may sẵn đạt 20,4 triệu cái, tăng 8,01%, giầy dép các loại đạt 35,4 triệu đôi, tăng 7,56%.
Lũy kế 10 tháng năm 2023 có 19/24 sản phẩm công nghiệp chủ yếu có chỉ số sản phẩm tăng so cùng kỳ đó là: Đá xây dựng các loại 15.357,7 nghìn m3, tăng 4,68%; bột ngọt 230,6 nghìn tấn, tăng 5,08%; nước ngọt các loại 224,6 triệu lít, tăng 3,12%; sợi các loại 859,6 ngàn tấn, tăng 4,79%; Vải các loại 489,4 triệu m2, tăng 9,31%; quần áo may sẵn đạt 197,8 triệu cái, tăng 5,54%; giầy dép các loại 356,2 triệu đôi, tăng 5,30%; sản phẩm kim loại 362,1 ngàn tấn, tăng 6,29%, v.v…; Một số sản phẩm 10 tháng chỉ số sản phẩm giảm như: Ván ép, gỗ cưa, gỗ lạng đạt 550 1000 m3, giảm 1,5%; Mạch điển tử, tủ điện, sản phẩm điện tử khác đạt 1.766,5 triệu chiếc, giảm 5,54%; Giường, tủ, bàn ghế đạt 8.053,4 1000 chiếc, giảm 3,81%, .v.v… Nguyên nhân tăng thấp và giảm là do đơn hàng xuất khẩu sang các thị trường Mỹ và các nước EU giảm, cụ thể một số doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn như da giày, dệt may (công ty Changshin, Việt Vinh, Pouchen.v.v). mặt khác do ảnh hưởng nguyên liệu đầu vào tăng cao, sản phẩm tiêu thụ khó khăn. Đặc biệt ngành sản xuất giường tủ, bàn ghế nhiều doanh nghiệp từ đầu năm đến nay đơn hàng mới rất ít, hầu như Doanh nghiệp dừng hoạt động thời gian dài, một số đơn hàng đã ký nhưng phải ngưng do đối tác không có khả năng thanh toán vì tài chính khó khăn.
2. Sản xuất Nông - Lâm nghiệp và thủy sản
a) Nông nghiệp
Tình hình sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh tháng 10 và 10 tháng năm 2023 cơ bản ổn định; thời tiết thuận lợi cho cây trồng phát triển; dịch bệnh không phát sinh thành dịch và không gây ảnh hưởng đến cây trồng, vật nuôi; giá cả nhiều sản phẩm nông nghiệp có xu hướng tăng. Tuy nhiên giá xăng, dầu, vật tư đầu vào tăng cao nên người dân gặp không ít khó khăn trong sản xuất nông nghiệp. Kết quả hoạt động các lĩnh vực như sau:
Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm ước đến 15/10/2023 là 142.114 ha, giảm 915,6 ha (-0,64%) so với cùng kỳ. Nguyên nhân giảm vì một số chân ruộng lúa cao không đủ nước để gieo trồng, hơn nữa hiện nay hầu hết diện tích gieo trồng cây hàng năm có xu hướng giảm dần do chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang các loại cây ăn trái như bưởi, sầu riêng, mít, chuối…. bên cạnh đó công tác quy hoạch, xây dựng, cho thuê, thu hồi đất v.v… cũng làm ảnh hưởng đến diện tích gieo trồng. Diện tích tăng, giảm một số cây trồng chủ yếu như sau: Diện tích lúa đạt 52.080,6 ha, giảm 0,84% (lúa Đông Xuân đạt 15.271,94 ha, tăng 0,06%; lúa Hè Thu đạt 18.836,5 ha, giảm 1,82%; lúa Mùa đạt 17.972 ha, giảm 3,25%); Diện tích ngô đạt 35.119 ha, giảm 0,28%; Khoai lang đạt 213 ha, giảm 6,99%; Mía đạt 3.549,5 ha, giảm 12,8%; Rau các loại đạt 17.838 ha, tăng 0,96%; Đậu các loại đạt 3.645 ha, tăng 2,7% so với cùng kỳ.
Dự ước sản lượng thu hoạch một số cây trồng chính 10 tháng đầu năm tăng, giảm so cùng kỳ như sau: Sản lượng lúa 243.759 tấn, tăng 0,1%; Bắp 215.152 tấn, tăng 0,74%; Khoai lang 1.603 tấn, giảm 8,96%; Sắn 368.265 tấn, tăng 2,79%; Mía 205.488 tấn, giảm 14,96%; Đậu tương 426 tấn, tăng 15,84%; Lạc 1.924 tấn, giảm 6,67%; rau các loại 231.519 tấn, tăng 3,4%; sản lượng đậu các loại 3.745 tấn, tăng 7% so cùng kỳ.
Cây lâu năm: Tình hình sản xuất cây lâu năm trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định, thời tiết khí hậu khá thuận lợi cho cây trồng phát triển, hiện nay vẫn đang trong mùa mưa nhưng không gây thiệt hại đối với các loại cây ăn quả lâu năm; dịch bệnh có phát sinh nhưng ở thể nhẹ, không ảnh hưởng nhiều đến sinh trưởng và phát triển cây trồng. Tổng diện tích cây lâu năm hiện có là 170.847 ha, tăng 0,51% so cùng kỳ. Trong đó: Cây ăn quả đạt 77.639 ha, tăng 1,29% và chiếm 45,44% so với tổng diện tích; Cây công nghiệp lâu năm đạt 93.208 ha, giảm 0,13% và chiếm 54,56% tổng diện tích. Hiện nay nhóm cây công nghiệp lâu năm như điều, tiêu, cao su có xu hướng giảm do người dân không đầu tư thâm canh và chăm sóc, một số diện tích bị chặt bỏ để chuyển sang trồng cây ăn quả và thực hiện các dự án theo định hướng phát triển của tỉnh.
Sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu thu hoạch trong 10 tháng đầu năm như sau: Xoài đạt 96.461 tấn (+0,59%); Chuối đạt 171.942 tấn (+12,56%); Thanh Long đạt 13.902 tấn (+0,91%); Bưởi đạt 77.050 tấn (+13,5%), sản lượng Điều đạt 39.481 tấn, giảm 3,88%; Tiêu đạt 27.833 tấn, giảm 1,38%, Cao su đạt 34.480 tấn, tăng 3,17% so cùng kỳ, nguyên nhân do giá thu mua mủ cao su tại Đồng Nai có xu hướng tăng đồng thời việc mở lại biên giới quốc tế của một số quốc gia và nối lại các hoạt động kinh tế đã góp phần thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng cao su phục hồi.
Chăn nuôi: Tình hình hoạt động chăn nuôi phát triển ổn định. Ngành chăn nuôi triển khai các giải pháp chăn nuôi an toàn sinh học, phòng chống dịch bệnh góp phần tái đàn có hiệu quả, trong 10 tháng đầu năm tình hình dịch bệnh trên gia súc, gia cầm có phát sinh nhưng chỉ ở thể nhẹ và được phòng chống kịp thời, không phát sinh thành dịch. Tổng đàn gia súc có đến thời điểm tháng 10/2023 là 2.532.152 con, giảm 7,83% so cùng kỳ. Trong đó:
Trâu đạt 3.921 con, tăng 0,18%; Bò đạt 96.288 con tăng 4,75% so cùng kỳ; Số lượng đàn trâu, bò tăng là do sản phẩm thịt gia súc phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội cao, nên các hộ chăn nuôi trâu, bò đầu tư thêm con giống để nuôi, bên cạnh đó người dân cũng cải tạo đàn bò theo hướng bò thịt nhằm tăng thu nhập trong chăn nuôi.
Heo đạt 2.431.943 con (không tính heo con chưa tách mẹ), giảm 8,28% so cùng kỳ. Nguyên nhân đàn heo giảm là do chi phí đầu vào tăng cao chủ yếu là do giá thức ăn chăn nuôi hiện tăng gấp nhiều lần so với trước, giá heo hơi bán ra luôn ở mức dưới giá thành sản xuất khiến người chăn nuôi gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, thị trường nội địa đang quá tải vì sản phẩm chăn nuôi không xuất khẩu được như kỳ vọng. Ngành chăn nuôi trên địa bàn tỉnh cũng chịu áp lực quá lớn do sản xuất cung lớn hơn cầu. Mặt khác, thị trường tiêu thụ có xu hướng giảm hơn vì kinh tế khó khăn, nhiều doanh nghiệp không có đơn hàng phải tạm ngừng sản xuất hoặc thu hẹp quy mô sản xuất, các bếp ăn tập thể tiêu thụ chậm sản phẩm chăn nuôi heo, do vậy người chăn nuôi cũng cân nhắc trong việc tái đàn. Mặt khác việc di dời các dự án chăn nuôi ra khỏi khu vực không được phép chăn nuôi dẫn đến tổng đàn giảm. Giá heo hơi trên địa bàn tỉnh đến ngày 17/10/2023 dao động trong khoảng từ 48.000 đến 53.000 đồng/kg.
Dự ước sản lượng thịt gia súc 10 tháng đầu năm tăng so cùng kỳ, cụ thể: thịt trâu đạt 227,6 tấn, tăng 7,1%; thịt bò đạt 4.171,3 tấn, tăng 6,35%; thịt heo đạt 401.162,5 tấn, tăng 5,36%. Sản lượng thịt heo tăng do nguồn thực phẩm này vẫn được thị trường tiêu thụ mạnh nên một số trang trại có heo trong chuồng có trọng lượng lớn là sẽ xuất chuồng, hạn chế việc nuôi kéo dài vì lo sợ chi phí thức ăn chăn nuôi tăng cao. Mặc dù giá heo hơi liên tục giảm, nhiều hộ chăn nuôi nhỏ lẻ tạm ngưng không tái đàn, nhưng các trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi heo vẫn nỗ lực duy trì sản xuất, đang hoàn thiện hơn chuỗi khép kín từ chăn nuôi đến giết mổ, linh động trong khâu phân phối ra thị trường.
Tổng đàn gia cầm hiện có là 25.653,5 nghìn con, giảm 6,04% so cùng kỳ, trong đó gà đạt 23.152,3 nghìn con, giảm 6,15%. Sản lượng thịt gia cầm 10 tháng đầu năm ước đạt 164.734,8 tấn, tăng 6,21%, trong đó thịt gà 144.837,2 tấn, tăng 6,57%; Sản lượng trứng gia cầm ước đạt 1.133 triệu quả, tăng 7,77% so cùng kỳ. Nguyên nhân đàn gà giảm là do việc thực hiện di dời hoặc buộc ngưng hoạt động do nằm trong khu dân cư, không có giấy phép về môi trường khiến cho các cơ sở chăn nuôi gặp nhiều khó khăn như thiếu nguồn vốn để mua đất, đầu tư cơ sở hạ tầng chăn nuôi tại địa điểm mới. Bên cạnh đó, giá tiêu thụ gà công nghiệp giảm sâu, dao động từ 20.000 đến 30.000 đồng/kg, trong khi đó giá thức ăn chăn nuôi vẫn tiếp tục đứng ở mức cao và nhiều chi phí phát sinh, nhiều trại phải “treo” chuồng hoặc bỏ nghề vì càng nuôi càng lỗ. Tuy nhiên sản lượng thịt gà vẫn tăng do đây là sản phẩm dễ chế biến trong các bếp ăn tập thể của các doanh nghiệp, trường học cùng với nhu cầu sinh hoạt và tiêu dùng trên thị trường xã hội tăng.
b) Lâm nghiệp
Tình hình lâm phận trên địa bàn tỉnh Đồng Nai phát triển ổn định, công tác quản lý bảo vệ rừng được duy trì và tăng cường; trên địa bàn tỉnh không xảy ra các vụ vi phạm lớn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài nguyên rừng; các kế hoạch, dự án, đề án, phương án được thực hiện đúng tiến độ, kế hoạch đề ra. Trong tháng 10/2023 các đơn vị lâm nghiệp tiếp tục xuống giống trồng rừng trên phần diện tích đất trồng. Dự ước diện tích rừng trồng mới trong tháng 10/2023 đạt 356,3 ha, tăng 0,34% so với tháng cùng kỳ; lũy kế 10 tháng đạt 3.658,53 ha, tăng 1,12% so cùng kỳ. Nguyên nhân tăng là do các năm trước diện tích rừng đã đến kỳ thu hoạch nhiều, nên năm nay các chủ rừng tiến hành trồng mới trên những diện tích đã thu hoạch để đảm bảo nguồn cung của thị trường. Bên cạnh đó còn có hình thức trồng cây phân tán các loại cây gỗ, cây làm cảnh, cây che bóng mát.… Ước tính 10 tháng số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 1.291,1 nghìn cây.
Trong tháng 10/2023 sản lượng gỗ khai thác dự ước đạt 28.447 m3, tăng 2,57% so với tháng cùng kỳ; Lũy kế 10 tháng đầu năm 2023 đạt 253.213 m3, tăng 2,31% so cùng kỳ, nguyên nhân tăng là do diện tích rừng sản xuất đã đến kỳ thu hoạch và một số diện tích khai thác tận thu dự án chuyển đổi quy hoạch.
Sản lượng củi khai thác dự ước tháng 10/2023 đạt 448,8 ste, tăng 2,02% so với tháng cùng kỳ; Lũy kế 10 tháng đạt 3.269 ste, tăng 1,99% so cùng kỳ.
c) Thủy sản
Tình hình sản xuất thủy sản trong tháng 10/2023 tương đối thuận lợi, hoạt động nuôi trồng thủy sản từng bước được cải thiện về phương thức nuôi trồng, công tác phòng chống dịch bệnh tốt, nhất là kiểm soát được nguồn thức ăn, con giống. Giá tiêu thụ sản phẩm thủy sản trên thị trường ổn định và tăng nhẹ. Các hộ nuôi trồng thủy sản chủ động cải thiện đầu tư ao, hồ, lựa chọn những con giống vật nuôi phù hợp với điều kiện khí hậu vùng miền, thay đổi cách nuôi nhằm giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế đặc biệt là các loại thủy sản có giá bán ổn định và thị trường tiêu thụ tốt như tôm sú, cá chép, cá mè...
Ước tính tổng sản lượng thủy sản tháng 10/2023 đạt 6.706 tấn, tăng 5,73% so tháng cùng kỳ; lũy kế 10 tháng ước đạt 61.223,74 tấn, tăng 4,82% so cùng kỳ. Trong đó: Sản lượng cá ước đạt 49.877,7 tấn, tăng 4,72%; Sản lượng tôm đạt 8.625,87 tấn, tăng 5,95%; Sản lượng thủy sản khác đạt 2.720,17 tấn, tăng 3,01%. Nguyên nhân tăng là do nhu cầu thị trường tiêu thụ xã hội ngày một tăng, sản phẩm thủy sản được người tiêu dùng sử dụng nhiều, giá bán sản phẩm thủy sản tăng cao, do đó mà nhiều hộ gia đình chủ động mở rộng diện tích nuôi trồng, áp dụng khoa học kỹ thuật, chăm sóc con giống, vật nuôi, nhằm hạn chế dịch bệnh phát sinh, nên sản lượng thủy sản tháng 10 và 10 tháng năm 2023 tăng khá so cùng kỳ.
3. Vốn đầu tư phát triển
Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển trên địa bàn bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý 10 tháng năm 2023 có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ. Mặc dù trong thực hiện gặp một số khó khăn như: Nhiều dự án, công trình chưa thể giải ngân do vướng mắc thủ tục pháp lý, giải phóng mặt bằng, gây khó khăn cho công tác thực hiện thi công công trình từ nguồn vốn đầu tư công. Bên cạnh vướng mắc về công tác giải phóng mặt bằng thì những hạn chế, yếu kém về năng lực của các nhà thầu thi công, các đơn vị tư vấn và sự phối hợp thiếu nhịp nhàng trong công tác thẩm định hồ sơ cũng được đánh giá là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân cũng như tiến độ thực hiện dự án, trong đó tình trạng trả đi trả lại hồ sơ làm kéo dài thời gian thực hiện các dự án diễn ra khá phổ biến. Dự ước thực hiện vốn đầu tư phát triển bằng nguồn vốn ngân sách Nhà Nước do địa phương quản lý tháng 10 năm 2023 thực hiện 1.355,38 tỷ đồng, tăng 10,69% so với tháng 9 năm 2023. Ước 10 tháng thực hiện 8.687,31 tỷ đồng, tăng 26,47% so cùng kỳ và bằng 67,04% so kế hoạch năm 2023.
4. Thu hút đầu tư và đăng ký doanh nghiệp
Tính từ đầu năm đến ngày 20/10/2023, thu hút đầu tư từ khu vực nước ngoài (FDI) đạt khoảng 1.044,64 triệu USD, tăng 4,78% so với cùng kỳ, trong đó: cấp mới 63 dự án với tổng vốn đăng ký 308,2 triệu USD (so với cùng kỳ năm 2022, tăng 75% về số dự án và giảm 19,12% về vốn đăng ký cấp mới); 82 dự án tăng vốn với tổng vốn bổ sung 736,4 triệu USD (so với cùng kỳ năm 2022, tăng 7,89% số dự án và tăng 19,57% về vốn bổ sung).
Tính từ đầu năm đến ngày 15/10/2023, tổng vốn đăng ký thành lập mới doanh nghiệp và bổ sung tăng vốn là 50.758 tỷ đồng, bằng 84,8% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó: có 3.184 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký khoảng 23.463 tỷ đồng (so với cùng kỳ năm ngoái, bằng 91,3% về số lượng doanh nghiệp thành lập mới và bằng 85,9% về số vốn thành lập mới) và 939 doanh nghiệp đăng ký tăng vốn với số vốn bổ sung khoảng 27.295 tỷ đồng. Ngoài ra có 1.623 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện đăng ký hoạt động trên địa bàn tỉnh, bằng 86,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/10/2023, có 437 doanh nghiệp giải thể (tăng 4% so với cùng kỳ) và có 582 Chi nhánh, địa điểm kinh doanh và văn phòng đại diện chấm dứt hoạt động (tăng 11% so với cùng kỳ); 1.465 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh (tăng 38,8% so với cùng kỳ). Lý do giải thể và chấm dứt hoạt động và tạm ngừng kinh doanh chủ yếu là do kinh doanh không hiệu quả. Các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
5. Thương mại du lịch, giá cả, xuất nhập khẩu và vận tải
5.1. Thương mại dịch vụ
Hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ tiêu dùng tháng 10 năm 2023 khá ổn định ở tất cả các ngành; nguồn cung hàng hóa bảo đảm, giá hàng hóa không có biến động nhiều so với tháng trước. Trong tháng 10, Sở Công thương tỉnh tổ chức hội nghị Kết nối sản phẩm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với hệ thống phân phối, thông qua chương trình nhằm tạo điều kiện cho các dự án khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; gặp gỡ chia sẻ kinh nghiệm, tìm hiểu thông tin thị trường; kết nối cung cầu hàng hóa với hệ thống siêu thị, các khách sạn nhà hàng, khu du lịch,… Các đơn vị kinh doanh tập trung phát triển thị trường trong nước, mở rộng mạng lưới phân phối bán buôn, bán lẻ và đa dạng nhiều hình thức, hàng hóa, dịch vụ đã góp phần tăng doanh thu ngành thương mại, dịch vụ trên địa bàn.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 10 năm 2023 dự ước đạt 22.439,6 tỷ đồng, tăng 0,46% so với tháng trước và tăng 9,16% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 10 tháng năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 215.470,4 tỷ đồng, tăng 12,92% so với cùng kỳ năm trước. Phân theo ngành hoạt động như sau:
a) Bán lẻ hàng hóa
Doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 10 ước đạt 16.399,5 tỷ đồng, tăng 0,25% so với tháng trước và tăng 5,49% so tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng doanh thu bán lẻ ước đạt 157.252,03 tỷ đồng, tăng 9,81% so với cùng kỳ. Một số nhóm hàng hoá có mức tăng khá so cùng kỳ như: Lương thực, thực phẩm tăng 7,12%, hàng may mặc tăng 18,11%; dồ dùng, dụng cụ, thiết bị gia đình tăng 8,13%; Vật phẩm, văn hóa, giáo dục tăng 22,69%; xăng dầu các loại tăng 13,46%; ...
b) Lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành
Dự ước doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tháng 10 năm 2023 đạt 2.223,03 tỷ đồng, tăng 2,38% so với tháng trước và tăng 22,75% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 20.901,46 tỷ đồng, tăng 22,89% so cùng kỳ, trong đó: Doanh thu lưu trú tăng 50,69%; doanh thu dịch vụ ăn uống tăng 22,63%.
Doanh thu du lịch lữ hành 10 tháng ước đạt 56,1 tỷ đồng, tăng 103,75 so với cùng kỳ năm trước. Năm 2023 các cơ sở kinh doanh du lịch đã từng bước phục hồi và phát triển, các điểm du lịch cơ bản đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng của các du khách trong, ngoài tỉnh...
c) Hoạt động dịch vụ
Doanh thu dịch vụ tháng 10 năm 2023 ước đạt 3.811,5 tỷ đồng, tăng 0,27% so với tháng trước và tăng 19,3% so với tháng cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng doanh thu dich vụ ước đạt 37.260,7 tỷ đồng, tăng 21,82% so cùng kỳ. Một số ngành kinh doanh dịch vụ tăng so với cùng kỳ như: Dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 12,82%; dịch vụ Giáo dục và Đào tạo tăng 29,39%; dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 21,79%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi giải trí tăng 20,6%...
5.2. Giá cả thị trường
Giá các mặt hàng thiết yếu tháng 10 năm 2023 không có biến động bất thường, nguồn cung được bảo đảm, giá hàng hóa tăng, giảm đan xen. Trong tháng do ảnh hưởng của giá thế giới nên giá các mặt hàng xăng, dầu đã điều chỉnh giảm, giá heo hơi trong tháng giảm nhẹ, do nguồn cung heo thịt trên thị trường dồi dào; nhóm lương thực tăng đáng kể do giá gạo tăng vì nhu cầu xuất khẩu tăng cao; các nhóm hàng hoá khác giá tương đối ổn định với những nguyên nhân trên làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 giảm 0,04% so với tháng trước; so với tháng 12 năm trước tăng 2,06%; so với cùng tháng năm trước, CPI tăng 2,48%.
Bình quân 10 tháng, CPI tăng 2,26% so với cùng kỳ năm trước.
So với tháng trước, CPI tháng 10/2023 giảm 0,04% (Khu vực thành thị giá ổn định; khu vực nông thôn giảm 0,08%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 8 nhóm hàng tăng giá so với tháng trước; 02 nhóm hàng hoá có chỉ số giá giảm và 01 nhóm hàng hoá ổn định so với tháng trước
Diễn biến giá tiêu dùng tháng 10/2023 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:
Hàng ăn và dịch vụ ăn uống
Chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tháng 10/2023 tăng 0,08% so với tháng trước, đóng góp vào mức tăng chung của CPI là (+0,03%). Trong đó
+ Lương thực: Chỉ số giá nhóm lương thực tháng 10/2023 tăng 0,71% so với tháng trước, trong đó chỉ số giá nhóm gạo tăng 0,86%, đay là mức tăng khá cao so với các nhóm hàng hóa khác. Hiện tại giá gạo tẻ thường bình quân trong tháng dao động từ 14.991 đồng/kg đến 16.974 đồng/kg; giá gạo tẻ ngon từ 18.491 đến 19.209 đồng/kg.
+ Thực phẩm: Giá thực phẩm tháng 10/2023 giảm 0,17% so với tháng trước, nguyên nhân giảm chủ yếu ở một số nhóm mặt hàng sau:
- Giá các mặt hàng thịt heo trong tháng bình quân giảm 0,87%. Nguyên nhân chủ yếu là do giá heo hơi trong tháng giảm 6,32% so với tháng trước do nguồn cung trên thị trường dồi dào, nhiều trang trại heo đã đến kỳ xuất bán để chuẩn bị tái đàn mới phục vụ nhu cầu dịp cuối năm; giá các mặt hàng thịt gia cầm tăng 0,26% so với tháng trước do nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng này tăng làm cho giá bán tăng; giá các mặt hàng thuỷ sản tăng 0,31% so với tháng trước nguyên nhân là do ảnh hưởng của thời tiết mưa nhiều nên việc đánh bắt không thuận lợi nên nguồn cung giảm. Các loại thực phẩm khác cơ bản ổn định như: rau tươi và chế biến; các loại củ, quả v.v...
Nhà ở và vật liệu xây dựng
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tháng 10/2023 tăng 0,57% so với tháng trước đóng góp vào mức tăng chung của CPI là 0,11% do các nguyên nhân chủ yếu sau:
– Giá gas tăng 4,89% so với tháng trước, nguyên nhân là từ ngày 01/10/2023, giá gas trong nước điều chỉnh tăng 20.000 đồng/bình 12 kg sau khi giá gas thế giới tăng 52,5 USD/tấn, Với mức tăng này hiện giá gas tới tay người tiêu dùng trong khoảng từ 428.500 đồng/bình đến 465.000 đồng/bình tuỳ loại.
– Giá nước sinh hoạt tăng 3,07%, giá điện sinh hoạt tăng 1,04% do nhu cầu tiêu thụ tăng.
Ở chiều ngược lại, giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở giảm 0,37% so với tháng trước do giá thép giảm khi nhu cầu tiêu thụ chậm. Hiện tại giá mặt hàng thép tròn phi 6 Thái Nguyên bình quân 19.480 đồng/kg; thép Việt Úc phi 10 bình quân 18.460 đồng/kg, cát vàng xây dựng 412.031 đồng/m3…
Các nhóm còn lại giá ổn định mức tăng từ (0,01% - 0,14%). Có 02 nhóm giảm là:
+ Giao thông (-1,92%)
Trong tháng 10 giá các mặt hàng xăng, dầu đã điều chỉnh giảm so với tháng trước làm cho chỉ số giá nhóm giao thông tháng 10/2023 giảm 1,92% tác động làm giảm mức tăng chung CPI trong tháng là 0,19%. Cụ thể: Giá các mặt hàng nhiên liệu trong tháng giảm 4,31% trong đó giá xăng giảm 4,63%; giá dầu DO giảm 0,72% so với tháng trước. Hiện tại giá bán xăng A95 (III) bình quân: 23.858 đồng/lít; xăng E5: 22.631 đồng/lít; Dầu DO: 22.847 đồng/lít.
+ Nhóm thuốc và dịch vụ y tế (-0,03%)
Nhóm thuốc và dịch vụ y tế giảm 0,03% so với tháng trước. Nguyên nhân do giá một số mặt hàng thuốc đã giảm như: Thuốc giảm đau, hạ sốt giảm 0,85%; thuốc về đường tiêu hoá giảm 0,92%... các dịch vụ y tế giá ổn định so tháng trước.
So với cùng tháng năm trước, CPI tháng 10/2023 tăng 2,06%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 9 nhóm tăng, trong đó tăng cao nhất là nhóm giao thông 4,66%; tăng thấp nhất nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,31%. Có 02 nhóm hàng hóa giảm là bưu chính viễn thông giảm 0,44%, Văn hoá, giải trí và du lịch giảm 1,67%.
Chỉ số giá bình quân 10 tháng 2023 tăng 2,26% so với cùng kỳ năm trước, trong đó 09 nhóm hàng hoá tăng giá, tăng cao nhất nhóm Giáo dục (+9,1%); Văn hoá, giải trí và du lịch(+4,98%); Đồ dùng và dịch vụ khác(+4,64%); Hàng ăn và dịch vụ ăn uống(+3,63%); Đồ uống và thuốc lá (+3,04%); Thiết bị và đồ dùng gia đình(+2,66%); Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng(+1,19%); May mặc, mũ nón và giày dép (+0,56%); Thuốc và dịch vụ y tế(+0,32%). Có 02 nhóm chỉ số giá giảm là giao thông giảm 3,43%; bưu chính viễn thông giảm 0,42%.
* Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ
Tháng 10 giá vàng tăng 1,78% so với tháng trước; so với cùng tháng năm trước tăng 9,98%; so với tháng 12/2022 tăng 8,37%. Bình quân 10 tháng năm 2023 tăng 3,49% so với cùng kỳ.
Chỉ số giá Đô la Mỹ tháng 10 tăng 1,03% so tháng trước; so với cùng tháng năm trước tăng 1,19%; so với tháng 12 năm trước tăng 0,63%. Bình quân 10 tháng so cùng kỳ tăng 0,91%.
5.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Bước sang tháng 10 năm 2023 hoạt động xuất, nhập khẩu có cải thiện nhưng còn nhiều khó khăn; các biện pháp tích cực và đồng bộ của Chính Phủ, các Bộ ngành nhằm tháo gỡ khó khăn để hỗ trợ sản xuất trong nước, các chương trình xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu được triển khai mạnh mẽ nên hoạt động xuất nhập khẩu trong tháng 10 đã có những tín hiệu tích cực hơn, tuy nhiên do những khó khăn chung của thị trường thế giới từ đầu năm nên kim ngạch xuất, nhập khẩu tháng 10 vẫn giảm 14,42% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình cụ thể như sau:
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 10 năm 2023 ước đạt 1.770,77 triệu USD, tăng 3,42% so với tháng trước và giảm 4,27% so tháng cùng kỳ. So với tháng trước hầu hết các nhóm hàng xuất khẩu dự ước tăng như: Sản phẩm gỗ (+3,28%), hàng dệt, may (+3,11%), giày dép các loại (+4,47%); Máy tính, sp, linh kiện điện tử (+1,55%); Xơ, sợi (+1,43%); Phương tiện vận tải và phụ tùng (+2,19%); sản phẩm từ sắt thép (+2,16%)… các hàng dệt may, xơ, sợi, giày dép là những mặt hàng chủ lực của địa phương sau nhiều tháng thiếu đơn hàng, đến nay tình hình cải thiện và có tín hiệu đang khá lên trong các tháng tiếp theo của năm 2023, kỳ vọng kim ngạch xuất khẩu những tháng cuối năm khá lên do nhu cầu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịp cuối năm tăng cao, tuy nhiên tình hình các tháng cuối năm 2023 vẫn chưa có gì thật sự khả quan hơn.
Tính chung 10 tháng năm 2023 kim ngạch xuất khẩu hàng hoá ước đạt 17.827,12 triệu USD, giảm 14,42% so cùng kỳ. Trong đó: kinh tế nhà nước giảm 18,68%; kinh tế ngoài nhà nước giảm 10,54%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài giảm 15,51% so cùng kỳ.
Thị trường xuất khẩu 10 tháng chủ yếu: Hoa kỳ 5.075,8 triệu USD chiếm 28,47%; Trung Quốc 1.829 triệu USD chiếm 10,26%; Nhật Bản 1.844 triệu USD chiếm 10,34%; Hàn Quốc 985,9 triệu USD chiếm 5,53%...
Kim ngạch nhập khẩu tháng 10 ước đạt 1.338,8 triệu USD, tăng 2,13% so tháng trước và giảm 0,46% so tháng cùng kỳ. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu tháng 10 tăng so tháng trước như: Hóa chất tăng 0,41%; chất dẻo nguyên liệu tăng 1,68%; gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 0,24%; xơ, sợi dệt các loại tăng 0,18%; nguyên phụ liệu dệt, may, da giày tăng 1,32%; sắt thép các loại tăng 2,64%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 2,62%...
Tính chung 10 tháng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 13.062,54 triệu USD, giảm 18,79% so cùng kỳ. Trong đó khu vực kinh tế nhà nước đạt 168,7 triệu USD, giảm 21,92%; khu vực kinh tế ngoài nhà nước đạt 1.934,5 triệu USD, giảm 41,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10.959,26 triệu USD, giảm 12,6%. Do xuất khẩu gặp khó khăn nên giảm sâu dẫn tới nhập khẩu cũng giảm mạnh vì nhu cầu nhập khẩu nguyên, phụ liệu sản xuất giảm mạnh, mặt khác nhập khẩu thiết bị máy móc phục vụ xây dựng các dự án đầu tư cũng giảm.
Thị trường nhập khẩu 10 tháng chủ yếu: Trung Quốc 3.549,8 triệu USD chiếm 27,18%; Hàn Quốc 1.613,8 triệu USD chiếm 12,35%; Nhật Bản 943,4 triệu USD chiếm 7,22%; Hoa kỳ 852,1 triệu USD chiếm 6,52%; ...
5.4. Giao thông vận tải
Trong tháng 10 tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải tăng so với tháng trước. Dịch vụ vận tải hành khách bằng xe đưa rước tiếp tục tăng so với tháng trước do học sinh các cấp học trong tỉnh đã vào học ổn định. Bên cạnh đó, đây là thời điểm nhu cầu vận chuyển nguyên liệu sản xuất, vật liệu xây dựng, hàng hoá chuẩn bị cho sản xuất cuối năm. Đây là những nguyên nhân làm cho doanh thu toàn ngành vận tải, kho bãi tăng so với tháng trước.
Dự ước Tổng doanh thu toàn ngành vận tải, kho bãi tháng 10 đạt 2.554,5 tỷ đồng, tăng 0,95% so với tháng trước và tăng 13,70% so với tháng cùng kỳ; 10 tháng dự ước đạt 25.290,1 tỷ đồng, tăng 20,47% so với cùng kỳ. Trong đó:
Doanh thu vận chuyển hành khách 10 tháng ước đạt 3.401,54 tỷ đồng, tăng 71,6% so với cùng kỳ năm trước tương đương Khối lượng vận chuyển hành khách ước đạt 60,8 triệu hành khách, tăng 31,37% so với cùng kỳ năm trước; Luân chuyển ước đạt 3.568 triệu hành khách.km, tăng 47,47% so với cùng kỳ.
Doanh thu vận chuyển hàng hoá 10 tháng ước đạt 13.995,4 tỷ đồng, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm trước, tương đương khối lượng vận chuyển hàng hoá ước đạt 62,4 triệu tấn, tăng 9,92%; Luân chuyển ước đạt 5.314 triệu tấn.km, tăng 11,09% so với cùng kỳ.
Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 10 tháng ước đạt 6.144,7 tỷ đồng, tăng 11,83% so với cùng kỳ năm trước.
6. Hoạt động ngân hàng
Hoạt động huy động vốn: Tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn ước đến 31/10/2023 đạt 303.442 tỷ đồng, tăng 5,46% so với đầu năm. Trong đó: Phát hành giấy tờ có giá ước đạt 2.900 tỷ đồng, tăng 6,15%; Tiền gửi ước đạt 300.642 tỷ đồng, tăng 5,49% (tiền gửi bằng đồng Việt Nam ước đạt 284.012 tỷ đồng, tăng 6,96%; tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 16.630 tỷ đồng, giảm 14,56%).
Hoạt động tín dụng: Dự ước đến 31/10/2023 tổng dư nợ cấp tín dụng trên địa bàn ước đạt 358.730 tỷ đồng, tăng 7,68% so với đầu năm (nợ xấu ước chiếm 1,1% trên tổng dư nợ cho vay). Trong đó: Giá trị các khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp ước đạt 1.730 tỷ đồng, giảm 22,94%; Tổng dư nợ cho vay ước đạt 357.000 tỷ đồng, tăng 7,89% (dư nợ bằng đồng Việt Nam ước đạt 306.500 tỷ đồng, tăng 6,42%; dư nợ bằng ngoại tệ ước đạt 51.100 tỷ đồng, tăng 19,15%).
Bên cạnh các giải pháp điều hành bằng công cụ chính sách, NHNN Việt Nam tiếp tục chỉ đạo các TCTD tiết giảm chi phí để giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đến nay lãi suất cho vay đã có xu hướng giảm (lãi suất cho vay bình quân của các giao dịch phát sinh mới bằng VND của các ngân hàng thương mại (NHTM) giảm khoảng hơn 1,0%/năm so với cuối năm 2022). Với tác động của độ trễ chính sách sau những lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành và các biện pháp của NHNN, dự kiến mặt bằng lãi suất cho vay VND sẽ tiếp tục giảm trong 03 tháng cuối năm 2023.
II. VĂN HÓA – XÃ HỘI
1. Văn hóa, thể thao
Về văn hóa quần chúng: Trong tháng tập trung tuyên truyền cổ động trực quan kỷ niệm các ngày lễ, phục vụ các nhiệm vụ chính trị bằng các hình thức treo cờ Đảng, cờ Tổ quốc; in treo cờ nội dung, cờ phướn, băng rôn, tờ tranh cổ động, thay đổi nội dung pano hộp đèn, pano cố định…. Tổ chức hội thi các Câu lạc bộ Nghệ thuật quần chúng với gần 200 hội viên tham gia. Một số chính sách chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh về lĩnh vực văn hóa trong tháng như: Kế hoạch số 233/KH-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc Tổ chức cuộc thi tìm hiểu “80 năm Đề cương về văn hóa Việt nam 1943-2023” trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; Quyết định Ban hành quy chế đặt, đổi tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh.
Về thể dục thể thao: Tổ chức một số giải thể thao quần chúng tiêu biểu như: giải Cờ vua Thiếu niên nhi đồng; giải vô địch các CLB Quần vợt tỉnh Đồng Nai mở rộng, giải Bơi học sinh tỉnh Đồng Nai, giải Taekwondo Thiếu niên, học sinh tỉnh Đồng Nai mở rộng năm 2023…
2. Y tế
Tình hình dịch bệnh: Trong tháng 10/2023, số ca mắc tay chân miệng là 1.386 ca, giảm 19,04% so với tháng trước và tăng gấp 1,7 lần so với tháng cùng kỳ; Lũy kế từ đầu năm đến nay ghi nhận 7.519 ca, tăng 21,27% so cùng kỳ, không ghi nhận ca tử vong. Sốt xuất huyết ghi nhận 519 ca, giảm 36,94% so với tháng trước, giảm 81% so với tháng cùng kỳ, không ghi nhận ca tử vong; Lũy kế đến cuối tháng 9/2023 số ca mắc sốt xuất huyết là 3.784 ca, giảm 81,56%, có 05 ca tử vong, giảm 13 ca (-72,22%) so với cùng kỳ. Một số dịch bệnh khác như: Sốt rét, sởi, tả, ho gà, uốn ván… trong tháng không ghi nhận trường hợp mắc.
* Dịch Covid-19: Tình hình dịch bệnh cơ bản kiểm soát tốt trên địa bàn tỉnh, số ca mắc mới trong tháng giảm so với tháng trước, cụ thể từ ngày 19/9/2023 – 19/10/2023 ghi nhận 04 ca mắc bệnh trên địa bàn tỉnh, giảm 01 ca so với tháng trước. Các ca nhiễm đều được giám sát, xử lý kịp thời đúng quy định, không lây lan thành ổ dịch lớn. Từ đầu năm 2023 đến nay, ghi nhận tổng số 2.531 ca mắc mới; có 02 ca tử vong do COVID-19.
Công tác đảm bảo an toàn thực phẩm: Trong tháng 10/2023 thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và tổ chức thanh tra, kiểm tra cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm, dịch vụ ăn uống và kinh doanh tiêu dùng thực phẩm 1.949/11.785 lượt cơ sở, trong đó: 1.886 cơ sở đạt (chiếm 96,77%); 63 cơ sở vi phạm (chiếm 3,23%), nhắc nhở 63 đơn vị. Từ đầu năm đến nay ghi nhận 01 ca ngộ độc rượu do methanol và tử vong.
3. Giáo dục, đào tạo nghề, giải quyết việc làm
Hoạt động giáo dục trong tháng chủ yếu: Tổ chức thi, chấm thi đội dự tuyển học sinh giỏi lớp 12; Chuẩn bị dữ liệu in bằng tốt nghiệp THPT năm 2023; Thẩm định hồ sơ, tổ chức đánh giá ngoài các đơn vị bậc học mầm non, tiểu học, THCS, THPT; Thẩm tra, cấp phát văn bằng, chứng chỉ theo một cửa liên thông; Kiểm tra tình hình đầu năm học mới các trường mầm non tại một số huyện/thành phố trên địa bàn tỉnh; Thẩm định trường mầm non đạt chuẩn quốc gia theo đề nghị của các đơn vị; Tập huấn “Ứng dụng phương pháp giáo dục tiên tiến vào tổ chức các hoạt động giáo dục”, tham quan mô hình điểm “lớp học Steam”.
Trong tháng 10, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh tuyển mới đào tạo cho 6.167 học viên; lũy kế 10 tháng đào tạo 69.342 học viên, đạt 96,31% kế hoạch năm, giảm 0,98% so với cùng kỳ.
Trong tháng 10/2023, phối hợp các sở, ban, ngành và các doanh nghiệp dịch vụ việc làm giải quyết việc làm cho 7.983 lượt người; lũy kế từ đầu năm được 71.052 lượt người, đạt 88,82% kế hoạch năm, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh không xảy ra vụ tranh chấp lao động tập thể, đình công. Lũy kế từ đầu năm, toàn tỉnh xảy ra 06 vụ tranh chấp lao động tập thể, đình công (giảm 08 vụ so với cùng kỳ năm 2022) với sự tham gia 1.078 lao động./.
Cục Thống kê tỉnh Đồng Nai