Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2022 của tỉnh Ninh Bình
Những tháng đầu năm 2022, dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh, số ca nhiễm tại cộng đồng tăng nhanh, phát sinh nhiều ổ dịch; bên cạnh đó tình hình chính trị thế giới có nhiều biến động, nhất là căng thẳng chính trị giữa các nước lớn, xung đột vũ trang giữa Nga và U-crai-na đã tác động tiêu cực đến chuỗi cung ứng toàn cầu, nguồn cung nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất bị gián đoạn, giá cả nhiều mặt hàng tăng cao, đặc biệt là giá xăng, dầu… đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của Nhân dân và hoạt động sản xuất kinh doanh trong tỉnh.
Để chủ động, thích ứng an toàn, linh hoạt, thực hiện hiệu quả các quy định của Trung ương, đảm bảo phù hợp với thực tiễn của tỉnh trong điều kiện mới, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phòng chống dịch, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn diện trên các lĩnh vực, đặc biệt chú trọng công tác hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp duy trì và phát triển, đẩy mạnh sản xuất. Qua đó, dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát tốt, hầu hết các ngành, lĩnh vực có xu hướng phục hồi và tăng trưởng trở lại. Dưới đây là một số kết quả kinh tế - xã hội đã trong 6 tháng đầu năm 2022:
1. Các chỉ tiêu tổng hợp
1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn toàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2022 (theo giá so sánh 2010) ước tính đạt 22.571,0 tỷ đồng, tăng 3,53% so với 6 tháng đầu năm 2021. Trong đó, giá trị tăng thêm khu vực I (nông, lâm nghiệp và thủy sản) đạt 2.457,2 tỷ đồng, tăng 1,76% đóng góp 0,20 điểm phần trăm vào tốc độ tăng GRDP của toàn nền kinh tế; khu vực II (Công nghiệp - xây dựng) đạt 8.479,2 tỷ đồng, tăng 3,38% đóng góp 1,27 điểm phần trăm (riêng công nghiệp ước đạt 6.700,6 tỷ đồng, tăng 3,64% đóng góp 1,08 điểm phần trăm); khu vực III (Dịch vụ) đạt 7.698,2 tỷ đồng, tăng 5,73% đóng góp 1,91 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 3.936,4 tỷ đồng, tăng 0,85% đóng góp 0,15 điểm phần trăm.
1.2. Cơ cấu kinh tế
Tổng sản phẩm xã hội (GRDP) trên địa bàn toàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2022 (theo giá hiện hành) ước tính đạt 36.239,1 tỷ đồng. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 3.828,1 tỷ đồng, chiếm 10,56%; khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 13.721,2 tỷ đồng chiếm 37,86%; khu vực dịch vụ đạt 12.718,0 tỷ đồng, chiếm 35,1%; thuế sản phẩm (trừ trợ cấp sản phẩm) đạt 5.971,8 tỷ đồng, chiếm 16,48%.
Tổng sản phẩm trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2022
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tỷ đồng, %
|
|
|
Theo giá hiện hành
|
|
Theo giá so sánh 2010
|
|
|
Tổng
|
Cơ
|
|
Tổng
|
Tốc độ phát triển
|
|
|
số
|
cấu
|
|
số
|
so với cùng kỳ
|
|
|
|
|
|
|
năm 2021
|
|
|
|
|
|
|
|
|
TỔNG SỐ
|
36.239,1
|
100,00
|
|
22.571,0
|
103,53
|
|
|
Nông, lâm nghiệp và thủy sản
|
3.828,1
|
10,56
|
|
2.457,2
|
101,76
|
|
|
Công nghiệp và xây dựng
|
13.721,2
|
37,86
|
|
8.479,2
|
103,38
|
|
|
Công nghiệp
|
10.988,5
|
|
30,32
|
6.700,6
|
103,64
|
|
|
Xây dựng
|
2.732,7
|
|
7,54
|
1.778,6
|
102,44
|
|
|
Dịch vụ
|
12.718,0
|
35,10
|
|
7.698,2
|
105,73
|
|
|
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm
|
5.971,8
|
16,48
|
|
3.936,4
|
100,85
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2. Thu, chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn
Bối cảnh chung của toàn cầu với những bất ổn về chính trị, kinh tế và ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 kéo dài đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế cả nước nói chung và của tỉnh Ninh Bình nói riêng. Một số doanh nghiệp trọng điểm, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách của tỉnh gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh khi giá cả hàng hóa cơ bản trên thị trường có xu hướng tăng dẫn đến chi phí sản xuất kinh doanh cao, nguồn cung lao động biến động cùng với việc thiếu nguyên liệu đầu vào buộc doanh nghiệp phải cắt giảm sản lượng sản xuất, doanh thu giảm sút ảnh hưởng lớn đến kết quả thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2022.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh (đã loại trừ hoàn thuế GTGT) ước đạt 10.450,5 tỷ đồng, bằng 52,2% dự toán năm và giảm 1,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thu nội địa ước đạt 7.521,1 tỷ đồng (chiếm 72,0% tổng thu), bằng 47,3% dự toán năm và tăng 4,7%; thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước đạt 2.929,2 tỷ đồng (chiếm 28,0% tổng thu), đạt 71,4% dự toán và giảm 15,5%. Trong thu nội địa: thu từ doanh nghiệp và cá nhân sản xuất kinh doanh trong nước ước đạt 5.939,2 tỷ đồng (chiếm 56,8% tổng thu), bằng 51,0% dự toán và tăng 1,9%; các khoản thu về nhà, đất 781,5 tỷ đồng (chiếm 7,5%), bằng 28,3% dự toán và tăng 99,7%.
Thực hiện mục tiêu kép vừa phòng, chống dịch hiệu quả vừa phục hồi phát triển kinh tế - xã hội, bên cạnh các giải pháp thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, tỉnh Ninh Bình đã triển khai nhiều biện pháp đảm bảo các dự án đầu tư công được thực hiện theo đúng tiến độ, đồng thời tiến hành giải ngân nguồn vốn đầu tư nhằm thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Tổng chi ngân sách địa phương trong 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 8.768,8 tỷ đồng, đạt 53,8% so với dự toán năm HĐND tỉnh giao và tăng 19,7% so với 6 tháng 2021. Riêng chi cân đối ngân sách địa phương ước thực hiện 7.986,5 tỷ đồng, đạt 54,8% dự toán và tăng 16,0%. Trong đó: chi đầu tư phát triển ước thực hiện 4.265,4 tỷ đồng, đạt 76,5% dự toán và tăng 12,7%; chi thường xuyên ước thực hiện 3.719,0 tỷ đồng, đạt 43,7% dự toán và tăng 20,1%. Chi thường xuyên đã cơ bản đáp ứng nhiệm vụ của các cấp, các ngành và các đơn vị, đảm bảo kinh phí thực hiện các chính sách chế độ của Trung ương và của tỉnh ban hành, tăng cường thực hiện các chính sách an sinh xã hội và đảm bảo nguồn ngân sách để thực hiện các nhiệm vụ quan trọng, đột xuất phát sinh trong kỳ. Trong chi thường xuyên: chi quốc phòng an ninh ước thực hiện 150,8 tỷ đồng, giảm 4,1%; chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề 1.465,3 tỷ đồng, tăng 21,5%; chi sự nghiệp y tế, dân số và kế hoạch hóa gia đình 350,5 tỷ đồng, tăng 28,1%; chi sự nghiệp kinh tế 426,6 tỷ đồng, tăng 43,0%; chi quản lý hành chính, Đảng, đoàn thể 735,5 tỷ đồng, tăng 2,7%; chi sự nghiệp đảm bảo xã hội 276,7 tỷ đồng, tăng 39,2%...
3. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và xây dựng nông thôn mới
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2022 tương đối thuận lợi, diện tích nhiễm các đối tượng dịch hại trên cây trồng thấp hơn cùng vụ năm trước. Tuy thời tiết đầu vụ Đông Xuân có một vài đợt rét đậm, rét hại tác động tiêu cực đến sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng, nhưng đến nay thời tiết tương đối thuận lợi, các cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt. Tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm từng bước được kiểm soát. Công tác bảo vệ và phòng chống cháy rừng tiếp tục được quan tâm; sản xuất thuỷ sản đạt khá so với cùng kỳ năm trước.
3.1. Nông nghiệp
3.1.1. Trồng trọt
Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân năm 2022 ước đạt 55,2 nghìn ha, giảm 0,7 nghìn ha (- 1,2%) so với cùng vụ năm trước. Trong đó: diện tích cây lương thực có hạt đạt 42,8 nghìn ha, giảm 0,6 nghìn ha (- 1,4%); riêng diện tích lúa đạt 39,8 nghìn ha, giảm 0,2 nghìn ha (- 0,4%), đạt 99,5% kế hoạch gieo cấy lúa vụ Đông Xuân năm 2022. Nguyên nhân diện tích cây hàng năm vụ Đông Xuân năm nay giảm so với cùng kỳ năm trước do một số diện tích cây hàng năm chuyển đổi sang đất phi nông nghiệp để xây dựng cơ sở hạ tầng mở rộng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và quy hoạch khu dân cư; một số diện tích lúa cấy kém hiệu quả chuyển sang nuôi trồng thủy sản.
Cây lúa vụ Đông Xuân: Ước tính năng suất lúa vụ Đông Xuân năm 2022 bình quân toàn tỉnh đạt 66,66 tạ/ha, giảm 0,15 tạ/ha (- 0,2%); sản lượng lúa ước đạt 265,2 nghìn tấn, giảm 1,6 nghìn tấn (- 0,6%) so với cùng vụ năm trước.
Cây ngô: 6 tháng đầu năm nay, diện tích ngô gần đạt 3,0 nghìn ha, giảm 0,5 nghìn ha (- 13,2 %); năng suất ước đạt 38,4 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha (+ 0,5%); sản lượng ước đạt 11,5 nghìn tấn, giảm 1,7 nghìn tấn (- 12,8%).
Tính chung lại: Sản lượng lương thực có hạt 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 276,6 nghìn tấn, giảm 3,3 nghìn tấn (- 1,2%) so với cùng kỳ năm trước.
Cây rau, đậu và cây công nghiệp: Diện tích cây rau đạt 7,3 nghìn ha, giảm 0,04 nghìn ha (- 0,6%), sản lượng rau ước đạt 149,0 nghìn tấn, giảm 0,02 nghìn tấn (- 0,01%); diện tích cây đậu đạt 101 ha, giảm 1,0 ha (- 1,0%), sản lượng đậu ước đạt 155 tấn, tương đương với cùng kỳ năm trước. Diện tích cây công nghiệp đạt 2,4 nghìn ha, giảm 0,4 nghìn ha (- 13,8%). Trong đó, diện tích lạc đạt 2,2 nghìn ha, giảm 0,2 nghìn ha (- 8,8%); diện tích đỗ tương đạt 0,08 nghìn ha, giảm 0,2 nghìn ha (- 67,2%). Sản lượng lạc ước đạt 6,2 nghìn tấn, giảm 0,5 nghìn tấn (- 7,9%); sản lượng đậu tương ước đạt 0,1 nghìn tấn, giảm 0,2 nghìn tấn (- 66,6%).
Trong 6 tháng đầu năm 2022, đã có nhiều mô hình mới được áp dụng vào sản xuất như mô hình liên kết trồng dưa chuột Nhật xuất khẩu ở Nho Quan, mô hình trồng dưa lưới ở Yên Khánh, ... đã mở ra cơ hội mới trong sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa tập trung và nâng cao hệ số sử dụng đất, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân địa phương.
Cây lâu năm: Diện tích cây lâu năm 6 tháng đầu năm 2022 vẫn giữ ổn định so với cùng kỳ năm trước, ước đạt 7,5 nghìn ha, trong đó diện tích cây ăn quả ước đạt 6,8 nghìn ha. Do điều kiện thời tiết thuận lợi, ít sâu bệnh nên ước tính sản lượng cây ăn quả thu hoạch trong 6 tháng đầu năm đạt 52,9 nghìn tấn, tăng 0,35 nghìn tấn (+ 0,7%) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng một số cây ăn quả tăng như: dứa ước đạt 36,4 nghìn tấn, tăng 0,07 nghìn tấn (+ 0,2%), chiếm 68,8% tổng sản lượng cây ăn quả của tỉnh; chuối ước đạt 11,3 nghìn tấn, tăng 0,15 nghìn tấn (+ 1,4%)...
3.1.2. Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2022 tuy đã từng bước được phục hồi, bệnh Viêm da nổi cục tiếp tục được kiểm soát tốt, nhưng ngành chăn nuôi vẫn gặp khó khăn khi dịch tả lợn Châu Phi có xu hướng diễn biến phức tạp; giá thức ăn chăn nuôi tiếp tục duy trì ở mức cao, từ đầu năm đến nay, các doanh nghiệp sản xuất thức ăn đã nhiều lần điều chỉnh tăng giá bán, do vậy đã ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất chăn nuôi và công tác tái đàn, duy trì, khôi phục sản xuất.
Đàn trâu, bò: Tại thời điểm báo cáo, tổng đàn trâu, bò ước đạt 49,4 nghìn con, tăng 0,6% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó: đàn trâu ước đạt 12,6 nghìn con, tăng 0,3%; đàn bò ước đạt 36,8 nghìn con, tăng 0,7%.
Đàn lợn: So với cùng thời điểm năm trước, đàn lợn có xu hướng tăng trở lại do các địa phương tiếp tục thực hiện việc tái đàn, tổng đàn lợn đến thời điểm báo cáo ước đạt 274,1 nghìn con, tăng 0,3 nghìn con (+ 0,1%).
Tình hình dịch tả lợn Châu Phi: Từ đầu năm 2022 đến thời điểm giữa tháng 4/2022 dịch tả lợn Châu Phi trên địa bàn được kiểm soát tốt. Tuy nhiên, từ cuối tháng 4/2022 dịch bệnh tái phát trở lại ở 8 huyện, thành phố, phát sinh nhiều ổ dịch nhất là tại các huyện: Nho Quan, Gia Viễn và Yên Mô. Đến ngày 22/6/2022, toàn tỉnh còn 54 xã, phường, thị trấn dịch bệnh chưa qua 21 ngày. Số lượng lợn tiêu hủy tính từ ngày 01/01/2022 đến hết ngày 22/6/2022 là 12,3 nghìn con, trọng lượng tiêu hủy 553,0 tấn.
Đàn gia cầm: Đàn gia cầm tiếp tục phát triển do ít bị ảnh hưởng của dịch bệnh. Ước tính đến thời điểm báo cáo tổng đàn gia cầm đạt 6,2 triệu con, tăng 1,8%; trong đó, đàn gà đạt 4,2 triệu con, tăng 1,8% so với cùng thời điểm năm trước. Trong 6 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn tỉnh xuất hiện 03 ổ dịch cúm gia cầm A/H5N1 tại xã Yên Lộc, huyện Kim Sơn; xã Khánh Nhạc và xã Khánh Mậu, huyện Yên Khánh; tổng số gia cầm ốm, chết bắt buộc phải tiêu hủy là 6,7 nghìn con. Các cấp, các ngành tập trung hướng dẫn người dân thực hiện các biện pháp vệ sinh khử trùng, tiêu độc khu vực chuồng nuôi và các khu lân cận. Đến thời điểm hiện tại các ổ dịch đã được kiểm soát, không xuất hiện các trường hợp nhiễm mới.
Sản lượng thịt hơi xuất chuồng trong 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt gần 31,8 nghìn tấn, tăng 3,5 nghìn tấn (+ 12,2%) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 21,1 nghìn tấn, tăng 2,7 nghìn tấn (+ 14,5%); sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng đạt 7,6 nghìn tấn, tăng 0,7 nghìn tấn (+ 11,0%).
3.2. Lâm nghiệp
Trong 6 tháng đầu năm, sản xuất lâm nghiệp tập trung chủ yếu vào công tác trồng rừng, trồng cây phân tán và chăm sóc, bảo vệ rừng, đồng thời duy trì các biện pháp phòng chống cháy rừng. Tuy nhiên, vào cuối tháng Tư đã xảy ra 01 vụ cháy rừng tại khu vực núi Thung Xoan, thôn Hang Nước, xã Quang Sơn, thành phố Tam Điệp với diện tích khoảng 0,061 ha, trong đó: diện tích núi đá không có cây thảm thực vật là 0,024 ha; diện tích rừng núi đá bị thiệt hại là 0,037 ha.
Ước tính diện tích rừng trồng mới tập trung 6 tháng đầu năm 2022 đạt 83 ha, giảm 45 ha (- 35,2%); sản lượng gỗ khai thác ước đạt 11,1 nghìn m3, giảm 1,4 nghìn m3 (- 11,5%); sản lượng củi ước đạt 12,8 nghìn ste, giảm 2,4 nghìn ste (- 16,0%). Số cây trồng phân tán trong 6 tháng đầu năm ước đạt 439,6 nghìn cây, tăng 33,6 nghìn cây (+ 8,3%) so với cùng kỳ năm trước.
3.3. Thuỷ sản
Sản xuất thủy sản 6 tháng đầu năm 2022 phát triển thuận lợi, không có dịch bệnh xảy ra. Sản lượng thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 31,8 nghìn tấn, tăng 1,6 nghìn tấn (+ 5,4%) và đạt 48,5% kế hoạch năm 2022; trong đó, sản lượng cá ước đạt 17,1 nghìn tấn, tăng 0,3 nghìn tấn (+ 2,0%), tôm ước đạt 0,8 nghìn tấn, tăng 0,1 nghìn tấn (+ 7,3%), thủy sản khác ước đạt 13,9 nghìn tấn, tăng 1,2 nghìn tấn (+ 9,8%).
Sản lượng thủy sản nuôi trồng 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 28,5 nghìn tấn, tăng trên 1,6 nghìn tấn (+ 6,1%) so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng cá đạt 15,0 nghìn tấn, tăng 0,4 nghìn tấn (+ 2,5%); sản lượng tôm ước đạt 0,5 nghìn tấn, tăng 0,05 nghìn tấn (+ 11,2%), sản lượng thủy sản khác đạt 13,0 nghìn tấn, tăng 1,2 nghìn tấn (+ 10,3%). Sau khi tình hình dịch Covid-19 đã được kiểm soát, các hoạt động kinh tế trở lại bình thường, thị trường tiêu thụ các sản phẩm thủy sản được thông suốt và thuận lợi hơn.
Sản lượng thuỷ sản khai thác đạt 3,3 nghìn tấn, giảm 0,01 nghìn tấn (- 0,4%) so với cùng kỳ năm trước.
Trong thời gian tới, sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tập trung vào việc thu hoạch nhanh gọn lúa và các loại cây trồng vụ Đông Xuân. Thực hiện đồng bộ, quyết liệt các biện pháp phòng, chống, khống chế dịch bệnh trên các loại cây trồng, vật nuôi và chuẩn bị kế hoạch sản xuất vụ Mùa năm 2022. Tăng cường bảo vệ và phòng chống cháy rừng. Sản xuất thủy sản tiếp tục phát triển diện tích nuôi tôm thâm canh, siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao, thích ứng với thời tiết khí hậu vùng ven biển Kim Sơn để nâng cao thu nhập cho bà con nông dân.
3.4. Công tác xây dựng nông thôn mới
Đến hết tháng 6 năm 2022, tỉnh Ninh Bình đã có 117/119 xã đạt chuẩn nông thôn mới (chiếm 98,3%); trong đó có 17 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 11 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; 238 thôn được công nhận khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu (chiếm 17%); 7 huyện, thành phố có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 6 huyện, thành phố (huyện Hoa Lư, huyện Yên Khánh, huyện Gia Viễn, huyện Yên Mô; thành phố Tam Điệp, thành phố Ninh Bình) được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; huyện Nho Quan đã trình Thủ tướng chính phủ xem xét công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.
Hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn được quan tâm đầu tư cơ bản đồng bộ, đặc biệt là đường giao thông nông thôn. Trong 6 tháng đầu năm 2022 các địa phương đã tiếp nhận 573 tấn xi măng làm được 10 tuyến đường giao thông nông thôn với chiều dài 3,5 km. Lũy kế đến nay, toàn tỉnh đã cấp 267.358 tấn xi măng, làm được 16.804 tuyến đường giao thông nông thôn với tổng chiều dài hơn 2.123,2 km.
4. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp của tỉnh gặp khó khăn khi những tháng đầu năm dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều ổ dịch tại các khu, cụm công nghiệp dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn lao động cho sản xuất; bên cạnh đó, xung đột quân sự giữa Nga và U-crai-na tác động đến chuỗi cung ứng nguyên vật liệu toàn cầu, khó khăn trong nhập nguyên liệu đầu vào cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra buộc các doanh nghiệp phải cắt giảm thời gian sản xuất. Do vậy, sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm vẫn duy trì mức tăng so với cùng kỳ, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng không cao.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) toàn tỉnh tháng Sáu năm nay ước tính tăng 1,97% so với cùng tháng năm trước, trong đó khai khoáng tăng 11,07%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,27%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,32%; duy nhất sản xuất và phân phối điện giảm 27,58%.
Tính chung lại 6 tháng đầu năm 2022 chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 1,08%, trong đó khai khoáng giảm 7,37%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,66%; sản xuất và phân phối điện giảm 12,84%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,03%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6/2022 tăng 9,63% so với tháng trước và giảm 7,36% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 6 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 5,3% so với 6 tháng 2021.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 30/6/2022 tăng 19,27% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 37,58% so với cùng thời điểm năm trước.
Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tháng Sáu tăng 0,63% so với tháng trước và tăng 22,95% so với tháng 6/2021. Tính chung năm 6 tháng đầu năm, chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp toàn tỉnh tăng 22,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh nghiệp Nhà nước giảm 14,87%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm 24,23%; doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài tăng cao 40,13%.
Giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh (tính theo giá so sánh 2010) 6 tháng đầu năm năm nay ước đạt 47.979,4 tỷ đồng, tăng 4,0% so với cùng kỳ năm trước, đạt 43,9% kế hoạch năm. Trong đó: ngành khai khoáng ước đạt 278,2 tỷ đồng, giảm 7,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 47.138,5 tỷ đồng, tăng 4,2%; sản xuất và phân phối điện đạt 484,6 tỷ đồng, giảm 5,8%; cung cấp nước và hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải đạt 78,1 tỷ đồng, giảm 0,7%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng khá trong 6 tháng đầu năm như: dứa đóng hộp 8,1 nghìn tấn, tăng 81,9%; nước dứa tươi 2,9 triệu lít, tăng 91,1%; hàng thêu 1,1 triệu m2, tăng 19,1%; quần áo các loại 50,7 triệu cái, tăng 23,3%; giày, dép các loại 24,5 triệu đôi, tăng 10,8%; găng tay 2,5 triệu đôi, tăng 8,1%; phân lân nung chảy 84,6 nghìn tấn, tăng 28,8%; kính nổi 201,5 nghìn tấn, tăng 5,1%; modul camera 179,1 triệu cái, tăng 57,0%; ắc quy điện bằng axit-chì dùng để khởi động cơ pittong 229,3 nghìn kWh, tăng 23,9%; xe ô tô chở hàng hóa 4,9 nghìn chiếc, tăng 26,8%; đồ chơi hình con vật 10,0 triệu con, tăng 33,5%; điện thương phẩm 1,3 tỷ kWh, tăng 2,9%...
Tuy nhiên, một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút là: đá các loại 1,6 triệu m3, giảm 6,8%; ngô ngọt đóng hộp 1,1 nghìn tấn, giảm 10,5%; thức ăn cho gia súc 11,7 nghìn tấn, giảm 16,1%; nước khoáng không có ga 1,8 triệu lít, giảm 17,5%; phân Ure 197,1 nghìn tấn, giảm 17,2%; phân NPK 53,2 nghìn tấn, giảm 19,0%; xi măng 3,9 triệu tấn, giảm 1,5%; clanke 1,4 triệu tấn, giảm 5,8%; linh kiện điện tử 62,5 triệu cái, giảm 7,4%; tai nghe điện thoại di động 1,8 triệu cái, giảm 38,7%; kính máy ảnh 692,1 nghìn cái, giảm 43,7%; xe ô tô từ 5 chỗ ngồi trở lên 21,8 nghìn chiếc, giảm 35,8%; cần gạt nước ô tô 5,5 triệu cái, giảm 13,5%; điện sản xuất 270,0 triệu kWh, giảm 23,1%...
5. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II/2022 cho thấy: có 38,24% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý II năm nay tốt hơn quý trước; 38,24% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 23,52% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý III so với quý II năm nay, có 63,24% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 20,59% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 16,17% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định.
Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II năm nay, có 45,59% số doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh của hàng hóa trong nước cao là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; tiếp đến 41,18% số doanh nghiệp cho rằng do nhu cầu thị trường trong nước thấp; 35,29% số doanh nghiệp cho rằng không tuyển được lao động theo yêu cầu; 33,82% số doanh nghiệp cho rằng do nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 32,35% số doanh nghiệp cho rằng gặp khó khăn về tài chính; 29,41% số doanh nghiệp cho rằng thiếu nguyên, nhiên vật liệu; 20,59% số doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao; 13,24% số doanh nghiệp cho rằng lãi suất vay vốn cao...
6. Vốn đầu tư và phát triển
Tổng vốn đầu tư phát triển 6 tháng đầu năm 2022 toàn tỉnh ước thực hiện 14.871,0 tỷ đồng, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước và đạt 55,1% kế hoạch năm. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước đạt 2.530,5 tỷ đồng, tăng 18,0%; vốn ngoài Nhà nước đạt 9.741,8 tỷ đồng, giảm 4,0%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2.598,7 tỷ đồng, gấp gần 3,2 lần.
Một số dự án, công trình có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn trong 6 tháng đầu năm nay là:
- Khu vực đầu tư công: Dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển qua tỉnh Ninh Bình (giai đoạn 1) ước đạt 85,3 tỷ đồng; dự án cải tạo nâng cấp đường ĐT.477 đoạn từ ngã ba Gián Khẩu đến hết phạm vi khu 50 ha mở rộng KCN Gián Khẩu ước đạt 80,0 tỷ đồng; dự án xây dựng Nhà văn hóa Trung tâm tỉnh Ninh Bình ước đạt 40,5 tỷ đồng; dự án nâng cấp tuyến đê hữu Hoàng Long và sông Đáy kết hợp giao thông đoạn từ Bái Đính đi Kim Sơn ước đạt 38,0 tỷ đồng; dự án xây dựng khu Trung tâm Thể dục Thể thao huyện Kim Sơn ước đạt 33,8 tỷ đồng; dự án xây dựng khu Trung tâm văn hóa Cộng đồng huyện Kim Sơn ước đạt 28,0 tỷ đồng; dự án xây dựng Công viên cây xanh, quảng trường, nhà văn hóa trung tâm huyện Nho Quan ước đạt 27,3 tỷ đồng; dự án xây dựng tuyến đường ĐT.482 kết nối quốc lộ 1A với quốc lộ 10 và kết nối quốc lộ 10 với quốc lộ 12B ước đạt 25,0 tỷ đồng; dự án xây dựng Nhà văn hóa trung tâm huyện Yên Mô ước đạt 18,5 tỷ đồng; dự án xây dựng Trụ sở Huyện ủy, HĐND và UBND huyện Kim Sơn ước đạt 18,2 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch sinh thái Tràng An và các dự án thành phần ước đạt 17,9 tỷ đồng; dự án nâng cấp cải tạo tuyến đường kết nối quốc lộ 12B với quốc lộ 10 đoạn Yên Mô - Kim Sơn tỉnh Ninh Bình ước đạt 17,0 tỷ đồng…
- Dự án sử dụng vốn ODA: Dự án sửa chữa nâng cao an toàn đập tỉnh Ninh Bình ước đạt 125,0 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng Âu Kim Đài phục vụ ngăn mặn giữ ngọt và ứng phó với tác động nước biển dâng cho 06 huyện, thành phố khu vực phía Nam tỉnh Ninh Bình ước đạt 64,5 tỷ đồng...
- Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước: Dự án xây dựng văn phòng của Công ty Cổ phần Hạ tầng dịch vụ và Hạ tầng ô tô Thành Công ước đạt 183,5 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy nước sạch Hoàng Long và mạng lưới đường ống cung cấp nước của Công ty TNHH Đầu tư và Xây dựng Hoàng Dân ước đạt gần 143,7 tỷ đồng; dự án xây dựng đường cấp nước sạch dự phòng từ nhà máy nước Hoàng Long về Thành phố Ninh Bình của Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Ninh Bình ước đạt 104,8 tỷ đồng; dự án xây dựng Trung tâm tổ chức sự kiện và nhà hàng của Công ty TNHH Vận tải và Thương mại Đức Hùng ước đạt 40,9 tỷ đồng; dự án sửa chữa lớn, nâng cấp hệ thống máy móc dây chuyền sản xuất xi măng của Công ty Cổ phần Vissai Ninh Bình ước đạt 37,1 tỷ đồng; …
- Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Dự án đầu tư xây dựng Nhà máy HTMT số 2 phục vụ lắp ráp, sản xuất ô tô của Công ty Cổ phần Sản xuất ô tô Hyundai Thành Công Việt Nam ước đạt 2.001,1 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy của Công ty TNHH Dream Plastic Kim Sơn ước đạt 159,7 tỷ đồng; dự án mua tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera dule của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 117,1 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH Regis ước đạt 46,9 tỷ; dự án xây dựng nhà máy sản xuất ghế ngồi ô tô của Công ty TNHH Deawon Auto Vina ước đạt 43,4 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH giày Athena Việt Nam ước đạt 31,1 tỷ đồng;…
- Dự án vốn Trái phiếu Chính phủ: Dự án thành phần đầu tư xây dựng Đoạn Cao Bồ-Mai Sơn thuộc dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc Nam phía đông giai đoạn 2017-2020 ước đạt 40,0 tỷ đồng.
7. Thương mại, dịch vụ
Trước tình hình dịch Covid-19 được kiểm soát tốt, các hoạt động dịch vụ, du lịch trên địa bàn tỉnh dần quay trở lại hoạt động bình thường, cùng với đó sau thời gian dài chịu ảnh hưởng bởi dịch, nhu cầu tiêu dùng, vui chơi, giải trí, du lịch, đi lại của người dân tăng cao đã tạo điều kiện cho ngành thương mại và dịch vụ của tỉnh tiếp đà phục hồi và đạt được mức tăng trưởng khá.
7.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
Doanh thu bán lẻ hàng hoá trong tháng Sáu ước đạt trên 3.227,4 tỷ đồng, tăng 18,1% so với cùng tháng năm 2021, đây là mức tăng cao nhất trong 6 tháng đầu năm 2022. Trong 6 tháng đầu năm 2022, doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh ước thực trên 19.152,2 tỷ đồng, tăng 13,1% so với 6 tháng năm 2021. Tất cả các nhóm hàng đều có tổng mức bán lẻ tăng khá, cụ thể: nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 5.631,9 tỷ đồng, tăng 11,4%; hàng may mặc 1.343,5 tỷ đồng, tăng 4,6%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 2.080,5 tỷ đồng, tăng 8,5%; vật phẩm, văn hoá, giáo dục 313,1 tỷ đồng, tăng 12,2%; gỗ và vật liệu xây dựng 3.203,9 tỷ đồng, tăng 15,4%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) 952,1 tỷ đồng, tăng 9,6%; phương tiện đi lại (trừ ô tô con kể cả phụ tùng) 1.145,5 tỷ đồng, tăng 11,9%; xăng, dầu các loại 2.007,3 tỷ đồng, tăng 26,0%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 436,3 tỷ đồng, tăng 18,2%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 754,1 tỷ đồng, tăng 24,7%; hàng hoá khác 788,2 tỷ đồng, tăng 11,6%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 495,8 tỷ đồng, tăng 11,0%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống trong tháng Sáu ước đạt gần 465,4 tỷ đồng, tăng 18,5% so với tháng cùng tháng năm trước; doanh thu lữ hành ước đạt 0,3 tỷ đồng (trong khi tháng 6/2021 các đơn vị kinh doanh lữ hành phải tạm ngừng hoạt động vì ảnh hưởng của dịch Covid-19); doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt 262,2 tỷ đồng, tăng 10,9%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt gần 2.603,6 tỷ đồng, tăng 7,1% so với cùng kỳ (trong đó: doanh thu lưu trú 179,8 tỷ đồng, tăng 1,0%; doanh thu dịch vụ ăn uống 2.423,8 ỷ đồng, tăng 7,6%); doanh thu dịch vụ lữ hành ước đạt gần 1,1 tỷ đồng, giảm 69,6%; doanh thu một số ngành dịch vụ khác gần 1.531,8 tỷ đồng, tăng 6,6%.
7.2. Chỉ số giá tiêu dùng
Giá xăng dầu, giá gas tăng theo giá nhiên liệu thế giới, giá nhà ở thuê tăng trở lại sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát, giá thịt gia cầm tăng là nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trên địa bàn tỉnh trong tháng 6/2022 tăng 0,74% so với tháng trước, tăng 3,49% so với tháng 12/2021 và tăng 3,14% so với cùng kỳ năm 2021. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, CPI tăng 2,11% so với cùng kỳ năm trước.
So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 09 nhóm hàng tăng giá; riêng 02 nhóm bưu chính viễn thông và nhóm văn hóa, giải trí, du lịch giữ ổn định. 09 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm giao thông có mức tăng cao nhất với 3,17% do sau các lần điều chỉnh tăng giá trong tháng, giá xăng liên tiếp lập kỷ lục, so với tháng trước giá xăng đã tăng 8,21%; giá dầu diezel tăng 8,49% kéo theo giá nhóm nhiên liệu tăng 8,04%; bên cạnh đó nhóm dịch vụ giao thông công cộng tăng 1,68% khi giá cước vận tải tăng theo đà tăng của nhóm nhiên liệu: giá vận tải hành khách đường sắt tăng 2,67%; giá vận tải hành khách đường hàng không tăng 13,38%; giá vận tải hành khách đường bộ tăng 0,99%. Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,02% do giá nhà ở cho thuê tăng 2,31%; giá gas tăng 7,07%, giá dầu hỏa tăng 10,28%. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,84%, trong đó: lương thực giảm 0,04%; thực phẩm tăng 1,3% chủ yếu do giá thịt gia cầm tăng 6,78% khi giá thức ăn chăn nuôi tăng cao người nuôi buộc phải tăng giá bán để bù lại chi phí (giá thịt gà tăng 7,37%; thịt gia cầm khác tăng 5,48%; trứng các loại tăng 1,49%); nhóm ăn uống ngoài gia đình vẫn giữ ổn định. Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,31%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,1%; nhóm giáo dục tăng 0,07%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,05%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,04% và nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,02%.
CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 2,11% so với cùng kỳ năm trước. Có đến 8/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, gồm: nhóm giao thông tăng mạnh nhất với mức tăng 16,68%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 5,48%; nhóm giáo dục tăng 2,15%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,19%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,67%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,63%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,42%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,4%. Ba nhóm còn lại có chỉ số giảm: nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,09%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,97% (lương thực tăng 1,63%; thực phẩm giảm 1,75%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,06%); nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,23%.
CPI 6 tháng năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
i) Giá xăng, dầu, giá gas, giá dầu hỏa tăng theo đà tăng của giá nhiên liệu thế giới: giá xăng tăng 50,53%; giá dầu diezel tăng 65,5% đẩy giá nhiên liệu tăng 49,23%; giá gas tăng 20,86%; giá dầu hỏa tăng 70,25%.
ii) Giá nhà ở cho thuê tăng 6,62%; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 5,01% do giá xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào.
iii) Giá gà tăng 3,94%, giá thịt gia cầm khác tăng 7,85% kéo theo giá thịt gia cầm tăng 5,13%.
Bên cạnh đó, có một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI 6 tháng đầu năm 2022 là:
i) Giá thịt gia súc giảm 19,16%, thịt chế biến giảm 11,04% do các địa phương tiếp tục thực hiện việc tái đàn lợn nên nguồn cung thịt lợn hơi trên địa bàn tỉnh tăng so với cùng kỳ làm cho giá thịt lợn hơi giảm đã 24,15%, nội tạng động vật giảm 19,73%.
ii) Giá gạo giảm 4,47% do xuất khẩu gạo gặp khó khăn.
Chỉ số giá vàng và chỉ số giá Đô la Mỹ: Chỉ số giá vàng tháng này tăng 1,82% so với tháng trước, tăng 3,7% với tháng 12/2021 và tăng 3,85% so với cùng tháng năm trước. Chỉ số giá bán lẻ đô la Mỹ tăng 0,23% so với tháng 5/2022, tăng 1,84% so với tháng 12 năm trước và tăng 3,0% so với tháng 6/2021. Bình quân 6 tháng đầu năm, chỉ số giá vàng tăng 1,43%, chỉ số Đô la Mỹ tăng 2,38% so với cùng kỳ năm 2021.
7.3. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt gần 3.389,6 triệu USD, tăng 28,3% so với cùng kỳ, đạt 57,4% kế hoạch năm.
Xuất khẩu: tổng giá trị xuất khẩu 6 tháng ước đạt gần 1.614,4 triệu USD, tăng 27,3% so với cùng kỳ năm trước và đạt 57,7% kế hoạch năm. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: quần áo các loại đạt 198,4 triệu USD; xi măng, clanke đạt 250,3 triệu USD; giầy dép các loại đạt 415,7 triệu USD; camera và linh kiện 511,5 triệu USD; linh kiện điện tử 54,9 triệu USD...
Trong 6 tháng đầu năm nay, một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh tăng khá như: dứa, dưa chuột đóng hộp 10,3 nghìn tấn, gấp 2,4 lần; nước dứa cô đặc 960 tấn, gấp gần 2,2 lần; quần áo các loại 42,9 triệu chiếc, tăng 48,7%; sản phẩm cói khác 1,1 triệu sản phẩm, tăng 30,9%; camera và linh kiện 198,8 triệu sản phẩm, tăng 66,9%; giầy dép các loại 40,3 triệu đôi, tăng 42,6%; phôi nhôm 13,2 nghìn tấn, gấp 3,1 lần... Tuy nhiên một số sản phẩm lại có mức giảm sút so với cùng kỳ như: xi măng, clanke 5,7 triệu tấn, giảm 29,7%; kính quang học 650,1 nghìn chiếc, giảm 28,4%; phân ure 900 tấn, giảm 98,6%; hàng thêu ren 48,3 nghìn sản phẩm, giảm 39,4%...
Nhập khẩu: tổng giá trị nhập khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt gần 1.775,2 triệu USD, tăng 29,2% so với 6 tháng năm 2021, đạt 57,3% kế hoạch năm. Trong đó, giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: linh kiện điện tử 583,6 triệu USD; linh kiện, phụ tùng ô tô các loại 540,6 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày dép 343,8 triệu USD; vải may mặc 90,8 triệu USD.
7.4. Vận tải hành khách và hàng hóa
Hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm nay có sự phục hồi đáng kể sau đại dịch Covid-19, đặc biệt là vận tải hành khách bằng đường thủy do chủ yếu phục vụ khách du lịch nên đạt tốc độ tăng cao khi du lịch được hoạt động bình thường trở lại, góp phần vào mức tăng trưởng chung của toàn ngành vận tải.
Vận tải hành khách: thực hiện trong tháng Sáu ước đạt trên 1,9 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 25,8% so với cùng kỳ và luân chuyển gần 98,4 triệu lượt khách.km, tăng 7,9%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, các đơn vị vận tải hành khách trong toàn tỉnh đã thực hiện trên 11,0 triệu lượt khách vận chuyển, tăng 16,8% so với 6 tháng 2021 và luân chuyển trên 574,1 triệu lượt khách.km, tăng 11,7%. Trong đó: vận tải đường bộ ước thực hiện 9,7 triệu lượt khách, tăng 13,3% và 568,9 triệu lượt khách.km, tăng 11,4%; vận tải đường thủy nội địa 1,3 triệu lượt khách, tăng 50,0% và 5,2 triệu lượt khách.km, tăng 51,1%.
Vận tải hàng hóa: trong tháng Sáu ước thực hiện trên 5,1 triệu tấn vận chuyển, tăng 10,8% so với tháng 6/2021 và luân chuyển 724,0 triệu tấn.km, tăng 9,2%. Ước tính 6 tháng 2022, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt gần 30,4 triệu tấn, tăng 14,3% so với cùng kỳ và luân chuyển 4.281,2 triệu tấn.km, tăng 14,9%. Phân theo ngành đường: vận tải đường bộ ước thực hiện 14,2 triệu tấn, tăng 12,0% và 729,5 triệu tấn.km, tăng 11,1%; vận tải đường thủy nội địa 15,3 triệu tấn, tăng 16,7% và 3.045,2 triệu tấn.km, tăng 16,1%; vận tải biển 0,9 triệu tấn, tăng 12,5% và 506,5 triệu tấn.km, tăng 13,0%.
Doanh thu vận tải: Doanh thu vận tải toàn tỉnh tháng Sáu ước thực hiện gần 684,5 tỷ đồng, tăng 21,8%. Tính chung 6 tháng đầu năm, doanh thu hoạt động vận tải ước đạt trên 3.908,1 tỷ đồng, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2021. Phân theo loại hình vận tải: vận tải hành khách ước đạt 500,9 tỷ đồng, tăng 17,8%; vận tải hàng hóa 3.245,0 tỷ đồng, tăng 17,7%; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải 159,1 tỷ đồng, tăng 43,0%; doanh thu bưu chính, chuyển phát 3,1 tỷ đồng, tăng 4,5%.
7.5. Hoạt động du lịch
Sau thời gian dài phải tạm ngừng đón khách do ảnh hưởng của dịch Covid 19, các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh đã được mở cửa đón khách du lịch ngoại tỉnh từ ngày 01/02/2022 và khách quốc tế từ ngày 15/3/2022, mở ra cơ hội cho ngành du lịch của tỉnh từng bước phục hồi và phát triển trong bối cảnh bình thường mới. Các đơn vị kinh doanh du lịch đã tập trung chuẩn bị tốt nhất cơ sở vật chất, nhân lực, phòng dịch, nâng cao chất lượng dịch vụ sẵn sàng đón khách trở lại. Bên cạnh đó, ngành du lịch của tỉnh đã triển khai xây dựng các sản phẩm mới, tập trung nâng cấp phát triển các sản phẩm du lịch mang lợi thế của địa phương, đặc biệt chú trọng các hoạt động như trải nghiệm tại khu phố cổ Hoa Lư, phố cổ Tràng An... đã tạo được điểm nhấn, thu hút du khách đến với Ninh Bình, do vậy số lượng khách đến tham quan, du lịch tại các điểm du lịch trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm nay tăng cao so với cùng kỳ.
Ước tính tổng số lượng khách đến các điểm thăm quan đạt trên 1.778,0 nghìn lượt, gấp trên 2,0 lần, đạt 71,1% kế hoạch năm. Chia ra: khách trong nước đạt 1.759,8 nghìn lượt, gấp gần 2,1 lần; khách quốc tế 18,2 nghìn lượt khách, tăng 39,3%. Số lượt khách đến các cơ sở lưu trú đạt gần 292,0 nghìn lượt khách, tăng 74,6%; số ngày khách lưu trú ước đạt trên 383,0 nghìn ngày khách, tăng 70,3%. Doanh thu du lịch trong 6 tháng đầu năm nay ước thực hiện gần 1.054,4 tỷ đồng, tăng 88,7% so với cùng kỳ năm trước, đạt 59,7% kế hoạch. Trong đó: doanh thu lưu trú ước thực hiện 229,0 tỷ đồng, tăng 84,3%; doanh thu nhà hàng 385,5 tỷ đồng, tăng 90,3%.
8. Một số vấn đề xã hội
8.1. Đời sống dân cư
Trong 6 tháng năm nay, tình hình đời sống nhân dân trên địa bàn tỉnh gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, thêm vào đó giá xăng, dầu tăng cao cũng ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh và nhu cầu đi lại. Tuy nhiên với sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát với thực tiễn của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, bên cạnh đó các ngành, các địa phương cũng đã chủ động, tập trung thực hiện các giải pháp, chương trình, đề án chính sách về lao động, giải quyết việc làm, trợ giúp xã hội, giảm nghèo... nhất là các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, người lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, do đó đời sống Nhân dân trên địa bàn tỉnh vẫn giữ ổn định.
Trong 6 tháng đầu năm đã giải quyết việc làm cho 10.284 lao động, trong đó xuất khẩu lao động là 407 người; tổ chức đào tạo nghề cho 8.378 lao động, trong đó đào tạo dài hạn 2.765 người, đào tạo ngắn hạn 5.613 người; tư vấn, giới thiệu việc làm cho 15.035 người.
Thực hiện Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 01/7/2021, Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, ngày 07/7/2021, Nghị quyết 126/NQ-CP ngày 08/10/2021 và Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Tính đến ngày 10/6/2022 toàn tỉnh đã hỗ trợ cho 28.277 đối tượng, với số tiền là 41.777,4 triệu đồng, trong đó: hỗ trợ 224 hộ kinh doanh cá thể với số tiền là 672 triệu đồng; lao động tự do 8.612 đối tượng, với số tiền là 12.243 triệu đồng; người lao động phải hoãn hợp đồng lao động, ngừng việc, nghỉ việc không hưởng lương là 5.751 đối tượng, với số tiền là 11.237,5 triệu đồng; hướng dẫn viên du lịch là 106 đối tượng, với số tiền là 393,3 triệu đồng; người điều trị Covid-19 và người cách ly y tế 13.769 đối tượng, với số tiền 16.834,1 triệu đồng. Hỗ trợ 05 đơn vị sử dụng lao động vay vốn để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất với số tiền gần 1.925,3 triệu đồng.
Công tác an sinh xã hội, giảm nghèo luôn được quan tâm thực hiện, trong 6 tháng đã thực hiện hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho gần 539,0 nghìn đối tượng là hộ nghèo, cận nghèo, các đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em dưới 6 tuổi, học sinh, sinh viên và hộ nông lâm ngư có mức sống trung bình; giải quyết cho 3.420 lượt đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội để phát triển sản xuất, với tổng kinh phí là 207,3 tỷ đồng; giải quyết cho 7.200 hộ được vay vốn xây dựng nước sạch và vệ sinh môi trường với tổng kinh phí 140,5 tỷ đồng; 60 hộ được vay vốn nhà ở xã hội với tổng kinh phí 16 tỷ đồng; 890 lượt học sinh, sinh viên được vay vốn với kinh phí 22,8 tỷ đồng.
Công tác bảo trợ xã hội và đền ơn đáp nghĩa cũng được thường xuyên quan tâm với tinh thần tương thân, tương ái, động viên kịp thời về vật chất và tinh thần. Trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, để mọi người, mọi nhà đều được vui Tết đón Xuân đầm ấm, các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư đã quan tâm động viên thăm hỏi, tặng quà cho các gia đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các đối tượng bảo trợ xã hội...với tổng số kinh phí 59.678,7 triệu đồng, tặng cho 159.415 đối tượng. Chia ra: quà của Chủ tịch nước 8.515,8 triệu đồng, tặng cho 27.788 đối tượng; quà của tỉnh 19.623,5 triệu đồng, tặng cho 51.722 đối tượng; quà của huyện, xã 11.871,3 triệu đồng, tặng cho 41.691 đối tượng; nguồn xã hội hóa 19.668,1 triệu đồng, tặng cho 38.214 đối tượng.
8.2. Giáo dục, đào tạo
Trong 6 tháng đầu năm 2022, để đảm bảo an toàn trường học trong tình hình dịch Covid-19, ngành Giáo dục Ninh Bình triển khai các giải pháp đồng bộ với tinh thần chủ động, linh hoạt thích ứng; triển khai kế hoạch dạy học linh hoạt, ứng phó với tình hình dịch Covid-19. Do đó đã đạt được nhiều kết quả như:
Tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp quốc gia Trung học phổ thông (THPT) năm học 2021-2022, kết quả có 45/68 học sinh dự thi đạt giải (chiếm 66,2%), tăng 12 giải so với năm học trước, trong đó có 01 giải Nhất môn Địa lý, 03 giải Nhì, 19 giải ba và 22 giải Khuyến khích; tổ chức kỳ thi học sinh giỏi lớp 12 THPT cấp tỉnh theo tổ hợp môn, kết quả có 248/471 học sinh dự thi đạt giải, chiếm tỷ lệ 52,65%, trong đó có 05 giải Nhất, 84 giải Nhì, 111 giải Ba; tổ chức cuộc thi Olympic “Tài năng Tiếng Anh” dành cho học sinh trung học và Olympic “Chinh phục IELTS”, kết quả: Có 117/193 thí sinh dự thi đạt giải, trong đó có 4 giải Nhất, 16 giải Nhì, 28 giải Ba và 69 giải Khuyến khích; tổ chức kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2022-2023 đảm bảo an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế.
Tham dự Kỳ thi Olympic Toán học sinh viên và học sinh Việt Nam, đoàn tuyển Ninh Bình có 10 học sinh tham gia, kết quả: 8/10 học sinh đoạt giải, chiếm tỷ lệ 80%, trong đó có 01 giải Nhì và 7 giải Ba; tham dự cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia năm học 2021-2022 dành cho học sinh THPT, kết quả có 02 Dự án đạt giải Ba; tham dự vòng Chung kết cuộc thi học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp năm 2021, kết quả: dự án “Thanh Bì Khang giải pháp đột phá từ thiên nhiên cho người viêm da cơ địa” của học sinh trường THPT Ninh Bình – Bạc Liêu đạt top 10.
Ngoài ra, tham gia cuộc thi vẽ tranh Quốc tế Toyota chủ đề “Chiếc ô tô mơ ước” lần thứ 11, đạt 02 giải Nhì và 03 giải Khuyến khích; tham gia thi đấu môn Karatedo tại Đại hội thể thao tỉnh Ninh Bình, đạt 02 Huy chương Vàng, 01 Huy chương Bạc và 03 Huy chương Đồng; đạt 03 Huy chương Bạc môn Cờ vua tại Đại hội TDTT tỉnh Ninh Bình lần thứ VII; tổ chức Lễ vinh danh Quỹ Khuyến học, khuyến tài Đinh Bộ Lĩnh tỉnh Ninh Bình năm học 2020-2021 cho 119 em học sinh có thành tích cao trong học tập và các lĩnh vực như thể thao, văn học, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, công nghệ năm học 2020-2021….
Hiện ngành giáo dục đang tập trung chuẩn bị tốt các điều kiện cho kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2022. Toàn tỉnh có 10.575 thí sinh đăng ký dự thi, trong đó 10.086 thí sinh đang học lớp 12 (THPT: 8.885 thí sinh, GDTX: 1.201 thí sinh) và 489 thí sinh tự do. Số thí sinh đăng ký bài thi tự chọn là 10.223 thí sinh, trong đó 3.318 thí sinh đăng ký bài thi Khoa học tự nhiên (chiếm 32,46%), 6.905 thí sinh đăng ký bài thi Khoa học xã hội (chiếm 67,54%).
8.3. Hoạt động Y tế
Những tháng đầu năm, trước sự bùng phát mạnh của dịch Covid-19, ngành Y tế đã bám sát chỉ đạo của Trung ương và của Tỉnh, chủ động triển khai các biện pháp thích ứng linh hoạt, an toàn, kiểm soát hiệu quả tình hình diễn biến dịch Covid-19. Bên cạnh đó, tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khám chữa bệnh; bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm; phục vụ tốt công tác y tế cho Đại hội thể thao Đông Nam Á (SEA Games 31)…
Số liệu cộng dồn từ khi có dịch đến 16h00 ngày 21/6/2022, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 103.192 trường hợp dương tính với SARS-CoV-2, đã điều trị khỏi và xuất viện 102.987 trường hợp, đang điều trị 70 trường hợp, chuyển Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương 30 trường hợp, tử vong 105 trường hợp (trong đó có 03 ca của tỉnh khác); tổng số trường hợp được cách ly và giám sát là 326.445 trường hợp; trong đó: cách ly tại cơ sở y tế là 27.888 trường hợp; cách ly y tế tại cơ sở cách ly tập trung là 29.141 trường hợp; cách ly y tế tại nhà và nơi lưu trú là 269.416 trường hợp; tổng số ca đã lấy mẫu xét nghiệm 606.353 ca. Đã tiêm phòng cho đối tượng trên 18 tuổi tối thiểu 01 mũi: 664.585 người, tiêm đủ 2 mũi: 660.400 người, tiêm mũi 3: 604.602 người, tiêm nhắc lại cho đối tượng đã tiêm mũi bổ sung 226.647 người; tiêm mũi 4: 39.684 người; tiêm cho nhóm đối tượng từ 12 đến dưới 18 tuổi mũi 1: 83.390 người; tiêm đủ 02 mũi: 79.178 người; tiêm mũi 3: 53 người; tiêm cho nhóm đối tượng từ 05 đến dưới 12 tuổi, mũi 1: 53.271 người; tiêm đủ 02 mũi: 342 người.
Trong 5 tháng đầu năm nay đã xảy ra 01 ca ngộ độc thực phẩm với 21 người bị ngộ độc; 24 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có tử vong do ngộ độc thực phẩm; 1.098 ca mắc tiêu chảy, 14 ca mắc viêm gan virus, 17 ca mắc thủy đậu, 2.668 ca mắc cúm…
Công tác khám chữa bệnh luôn được quan tâm thực hiện: Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh trong 5 tháng đã khám bệnh cho 397,3 nghìn lượt bệnh nhân; điều trị nội trú cho 69 nghìn lượt bệnh nhân; khám thai 15,6 nghìn lượt; đặt vòng 566 ca, triệt sản 27 ca.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong 5 tháng, phát hiện mới 21 người nhiễm HIV, có 12 trường hợp tử vong do AIDS. Lũy kế số người nhiễm HIV tính đến nay là 2.913 người.
8.4. Văn hoá thông tin
Hoạt động Văn hóa - Thông tin diễn ra với nhiều nội dung và hình thức phong phú, thiết thực chào mừng kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước và những sự kiện trọng đại của tỉnh, như: Kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Đảng 03/02, chào mừng Xuân mới Nhâm Dần 2022; kỷ niệm 91 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; kỷ niệm 200 năm Danh xưng Ninh Bình và 30 năm tái lập tỉnh; chào mừng Lễ hội Hoa Lư năm 2022; kỷ niệm 132 năm ngày sinh nhật Bác; Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 (SEA Games 31)… Hoạt động thông tin tuyên truyền và cổ động trực quan được tập trung thực hiện sâu rộng, nêu bật được ý nghĩa của các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và địa phương.
Lực lượng làm công tác thông tin tuyên tuyền và cổ động trực quan đã thực hiện kẻ vẽ, sửa chữa nâng cấp, thay nội dung và làm mới 82 cụm pano lớn và 7.104 pa nô nhỏ và khẩu hiệu tường; chăng treo 658 băng rôn và 589 cờ các loại; cắm 230 lượt mâm cờ; làm mới và sửa chữa 145 cổng chào...Ngoài ra còn tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về các quy định an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, tệ nạn xã hội, đặc biệt là tuyên truyền về thực hiện nghiêm các biện pháp phòng chống dịch Covid-19…
Nhà hát chèo đã thực hiện 148 buổi biểu diễn nghệ thuật và chương trình ca múa nhạc phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ nhân dân; Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng đã tổ chức 147 buổi chiếu phim lưu động phục vụ khán giả; Bảo tàng tỉnh đã đón tiếp và hướng dẫn 6.479 lượt khách tham quan; Thư viện tỉnh cấp, đổi mới 415 thẻ bạn đọc, luân chuyển 116,0 nghìn lượt sách báo, phục vụ trên 46,6 nghìn lượt người đọc.
8.5. Thể dục, thể thao
Trong 6 tháng, tiếp tục duy trì đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên các tuyến tại Trung tâm huấn luyện thể dục thể thao bảo đảm công tác phòng chống dịch Covid-19. Bên cạnh đó, cử các đoàn vận động viên đi thi đấu các giải, đạt được 49 huy chương các loại gồm 26 HCV, 09 HCB và 14 HCĐ. Trong đó, đáng chú ý là thành tích thi đấu của các vận động viên tham dự Sea Games 31 đạt 09 huy chương, gồm: 03 HCV, 03 HCB, 03 HCĐ. Hiện các đoàn vận động viên tiếp tục tham gia thi đấu các giải như: giải Bóng chuyền hạng A toàn quốc 2022 tại Quảng Ngãi; giải vô địch các lứa tuổi trẻ Vật cổ điển, Vật tự do quốc gia năm 2022 tại Bắc Giang; vô địch Cờ vua trẻ Quốc gia năm 2022 tranh Cúp Vietcombank tại Bà Rịa - Vũng Tàu.
Đăng cai tổ chức thành công môn thi đấu Karate thuộc khuôn khổ Đại hội thể thao Đông Nam Á (SEA Games 31); tổ chức thành công giải Bóng chuyền Cúp Hoa Lư Bình Điền lần thứ XVI năm 2022.
Thể thao quần chúng: tổ chức thành công giải giao hữu Bóng đá chuyên nghiệp - Cúp Hoa Lư năm 2022; giải Cờ vua các trường mầm non thành phố Ninh Bình; giải Việt dã xã, phường, thị trấn tỉnh Ninh Bình lần thứ VI; giải Bóng chuyền hơi nữ và giải Việt dã trong khuôn khổ Đại hội TDTT tỉnh lần thứ VII năm 2022; tổ chức thi đấu các môn Bơi, Cầu lông, Bóng bàn, Đá cầu, Quần vợt trong chương trình thi đấu Đại hội thể dục thể thao tỉnh Ninh Bình lần VII năm 2022; giải Cầu lông, Bóng bàn, Quần vợt cán bộ, công chức, viên chức thuộc Công đoàn viên chức khối Cơ quan tỉnh chào mừng kỷ niệm 30 năm tái lập tỉnh và hưởng ứng Tháng công nhân năm 2022…
8.6. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
Lực lượng Công an tỉnh chủ động nắm, kiểm soát tốt tình hình, chỉ đạo giải quyết những vấn đề nổi liên quan đến an ninh trật tự (ANTT), không để xảy ra đột xuất, bất ngờ. Huy động tối đa lực lượng, phương tiện, triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ thực hiện quyết liệt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, bảo đảm ANTT trong những ngày lễ, tết, những sự kiện trọng đại của tỉnh như: Lễ hội Hoa Lư, Lễ kỷ niệm 200 năm Danh xưng Ninh Bình và 30 năm tái lập tỉnh; Đại hội thể thao Đông Nam Á …
Tính từ 15/05/2022-14/06/2022, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 10 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 04 người và 18 người bị thương; xảy ra 29 vụ phạm pháp hình sự; phát hiện 43 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 64 đối tượng.
Tính chung lại, từ 15/12/2021 đến 15/6/2022 trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 49 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 19 người và 46 người bị thương, so với cùng kỳ năm trước giảm 17 vụ, tăng 04 người chết, giảm 08 người bị thương; xảy ra 154 vụ phạm pháp hình sự, giảm 33 vụ; phát hiện 193 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 238 đối tượng, tăng 21 vụ, giảm 04 đối tượng. Xảy ra 02 vụ cháy, gây thiệt hại 500 triệu đồng./.
Cục Thống kê tỉnh Ninh Bình