Thứ hai, 00/00/2023
°

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng phát biểu tại Hội nghị toàn quốc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp

Ngày 30/07/2018 - 09:40:00 | 433 lượt xem
Xem cỡ chữ
Tương phản chữ
Đọc bài viết
Từ viết tắt

Kính thưa Đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ!

Kính thưa toàn thể Hội nghị!

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến phát triển nông nghiệp, đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp.

Thực tiễn của 30 năm đổi mới cho thấy, Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu, phải nhập khẩu lương thực chuyển sang một nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn trở thành quốc gia xuất khẩu nông sản thuộc nhóm hàng đầu trong khu vực và trên thế giới.

Thành tựu đó có sự đóng góp to lớn của các doanh nghiệp, doanh nhân đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và bà con nông dân, những người đang chung sức, nỗ lực không ngừng để tạo dựng nên nhiều thương hiệu nông sản Việt – niềm tự hào của quốc gia trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp thời gian qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của quốc gia và chưa thật sự bền vững, hiệu quả. Chính vì vậy, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ban ngành, địa phương tổ chức Hội nghị toàn quốc Thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp nhằm lắng nghe những vướng mắc, khó khăn, những vấn đề còn bất cập trong chính sách để tháo gỡ trong thời gian tới.

Trên cơ sở tổng hợp báo cáo của các Bộ, ngành; gần 50 địa phương và hàng trăm ý kiến đóng góp trực tiếp của cộng đồng doanh nghiệp và các chuyên gia thông qua 02 cuộc Tọa đàm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trong Hội nghị ngày hôm nay, thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo tóm tắt Thực trạng và giải pháp thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp với các nội dung như sau:

Trước hết, chúng ta cần nhìn nhận vai trò hết sức quan trọng của các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp thể hiện qua những đánh giá sau:

Thứ nhất, các doanh nghiệp tạo việc làm, cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập cho người nông dân, người lao động, góp phần quan trọng ổn định xã hội.

- Hiện nay, số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm khoảng 32% tổng số lao động trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp.

- Mức thu nhập bình quân của lao động trong khối doanh nghiệp này cũng được cải thiện đáng kể qua thời gian, hiện nay bình quân khoảng hơn 5 triệu đồng/người/tháng.

Thứ hai, doanh nghiệp là đối tượng chuyển đổi mô hình sản xuất tiên tiến, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ. Phải nói rằng, công nghệ chính là công cụ quan trọng nhất để các doanh nghiệp có thể tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam.

Bên cạnh đó, nông nghiệp hiện là lĩnh vực đứng thứ 11 trong số 19 ngành kinh tế thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp FDI đã đưa vào Việt Nam nhiều giống cây, giống con có năng suất và chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, áp dụng các mô hình hợp tác kinh doanh hiệu quả cao.

Thứ ba, doanh nghiệp là lực lượng thực hiện đầu tư, nâng cao giá trị hiệu quả sử dụng đất; góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương, gắn với nhu cầu thị trường; tập trung vào các sản phẩm có giá trị gia tăng cao.

Thứ tư, doanh nghiệp là yếu tố then chốt thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị trong nông nghiệp. Các hoạt động liên kết trong lĩnh vực nông lâm thủy sản diễn ra ngày một đa dạng, đặc biệt là liên kết góp vốn đầu tư sản xuất và liên kết bao tiêu sản phẩm. Trong đó, các doanh nghiệp là nhân tố dẫn dắt chủ đạo.

Thứ năm, các doanh nghiệp có vai trò trọng yếu trong xuất khẩu nông sản,  tạo dựng thương hiệu Việt trên thị trường quốc tế và có đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước.

Hiện nay, Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới với 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ đô la Mỹ. Các mặt hàng như cá basa, cá ngừ, tôm, cà phê, hạt điều,.. đã có vị thế khá vững chắc trên thị trường, chiếm ưu thế và đã trở thành thực phẩm rất quen thuộc với người tiêu dùng các nước trên thế giới.

Để tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy hơn nữa vai trò của mình trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta cần phải có đánh giá toàn diện về hiện trạng của các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp thông qua những điểm chính sau:

Thứ nhất, về số lượng và hình thức tổ chức sản xuất

Hiện nay, cả nước có khoảng hơn 49.600 doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, chiếm 8% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước; nhưng các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất các sản phẩm nông, lâm, thủy sản chỉ chiếm khoảng 1% tổng số doanh nghiệp với số lượng 7.600 doanh nghiệp; còn lại  là các doanh nghiệp trong chuỗi các ngành liên quan đến nông nghiệp như chế biến hàng; cung cấp nguyên liệu đầu vào, doanh nghiệp dịch vụ thương mại...

- Về hình thức tổ chức sản xuất, việc cơ cấu lại sản xuất sản phẩm nông nghiệp diễn ra theo hướng chuyển dần từ hộ sản xuất sang hình thức hợp tác xã, doanh nghiệp, nhưng với tốc độ chuyển dịch còn khá chậm. Hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp chủ yếu hiện nay vẫn ở dạng hộ sản xuất với hơn 9,2 triệu hộ.

Thứ hai, về cơ cấu doanh nghiệp: Khoảng 90% doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp là doanh nghiệp tư nhân; còn lại là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI.

- Xét về cơ cấu ngành và vùng lãnh thổ: Gần 50% doanh nghiệp hoạt động trong ngành nông nghiệp; hơn 35% trong lĩnh vực khai thác, nuôi trồng thủy sản; và hơn 15% trong lĩnh vực lâm nghiệp. Các doanh nghiệp nông nghiệp tập trung nhiều nhất ở đồng bằng sông Cửu Long với tỷ trọng là 25%, và ít nhất ở miền núi phía Bắc là 7%.

- Xét theo quy mô lao động, 96% các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp chủ yếu có quy mô nhỏ và siêu nhỏ.

Thứ ba, về nguồn vốn sản xuất kinh doanh: Nguồn vốn của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 8% đến 10% tổng nguồn vốn của toàn khu vực doanh nghiệp. Trong đó, vốn của các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất chỉ chiếm khoảng 1%.

Thứ tư, về hiệu quả sản xuất kinh doanh:

Trong giai đoạn vừa qua, mặc dù doanh thu của doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp có xu hướng tăng nhẹ, chiếm 15-16% doanh thu của toàn bộ doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng lợi nhuận của các doanh nghiệp nhóm ngành trực tiếp sản xuất lại có xu hướng giảm. Nhìn chung, lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp trong ngành trực tiếp sản xuất nông nghiệp chỉ đạt 1,08 tỷ đồng, trong khi doanh nghiệp trong ngành chế biến sản phẩm nông nghiệp đạt 3,2 tỷ đồng lợi nhuận bình quân/năm.

Bên cạnh đó, năng suất lao động ngành nông nghiệp của chúng ta còn hạn chế chỉ bằng khoảng 38% năng suất lao động bình quân chung cả nước và thấp hơn hầu hết các nước trong khu vực.

Như vậy, qua các số liệu trên, chúng ta có thể hình dung thực trạng doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp hiện nay giống như một bức tranh nhiều màu sắc, trong đó còn nhiều mảng màu cần làm cho tươi sáng hơn trong tương lai.

Thưa toàn thể Hội nghị!

Nhìn từ góc độ của Nhà nước, cơ chế chính sách và khung pháp lý ngày càng được hoàn thiện, thu hút, tạo động lực cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp. Thời gian qua, Nhà nước đã xây dựng khung pháp lý ngày một thông thoáng và ban hành nhiều chính sách ưu đãi thu hút đầu tư tư nhân trong và ngoài nước vào nông nghiệp, nông thôn.

Quốc hội đã thông qua Luật đất đai, Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp sửa đổi, Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, ....Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách với mục tiêu tạo môi trường kinh doanh đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp như các Nghị quyết số 19/NQ-CP, Nghị quyết 35/NQ-CP về cải thiện môi trường kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp đến năm 2020.

Nhiều chính sách cũng đã được ban hành cụ thể như Nghị định số 55/2015 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; Nghị định số 98/2018 về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong hợp tác, liên kết sản xuất quy mô lớn; Gói tín dụng 100 nghìn tỷ cho nông nghiệp công nghệ cao; Nghị định số 58/2018 về bảo hiểm nông nghiệp, v.v…

Đặc biệt, gần đây nhất Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/2018/NĐ-CP thay thế Nghị định số 210/2013/NĐ-CP, với nhiều ưu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.

Nghị định mới tập trung vào các cơ chế chính sách ưu đãi về sử dụng, thuê đất đai, mặt bằng kinh doanh; ưu đãi về thuế, hỗ trợ tín dụng; đào tạo lao động, phát triển thị trường, đầu tư cơ sở hạ tầng đến hàng rào doanh nghiệp, ưu tiên hỗ trợ một số dự án đầu tư vào nông nghiệp nhất là các dự án về liên kết, chế biến sâu, ứng dụng khoa học công nghệ cao.

Thưa quý vị và toàn thể Hội nghị!

Một trong những mục tiêu quan trọng của Hội nghị ngày hôm nay là nhận diện rõ các khó khăn, thách thức cũng như nguyên nhân đang làm cản trợ các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, tạo thành điểm nghẽn trong tăng trưởng nông nghiệp hiệu quả và bền vững.

Qua phản ánh từ cộng đồng doanh nghiệp và tổng hợp từ báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương, sau đây tôi xin tóm tắt các khó khăn, vướng mắc và hạn chế nội tại của doanh nghiệp và cơ chế chính sách theo 10 nhóm vấn đề chính sau:

Vấn đề thứ nhất, doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận đất đai để tổ chức sản xuất. Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, đặc biệt là quy hoạch các vùng nguyên liệu chưa được triển khai hiệu quả, còn thiếu sự ổn định.

Bên cạnh đó, quá trình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp diễn ra chậm, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất, đặc biệt là sản xuất hàng hóa quy mô lớn của doanh nghiệp; việc tiếp cận đất đai của nhà đầu tư thông qua việc nhận quyền sử dụng đất, thuê đất trực tiếp trên thị trường để tổ chức sản xuất nông nghiệp còn gặp khó khăn do chưa có sự đồng thuận của người sử dụng đất.

Vấn đề thứ hai, khó tiếp cận tín dụng; thuế và phí chưa hợp lý.

- Doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn tín dụng, một phần do thiếu các quy định, hướng dẫn cụ thể về định giá tài sản trên đất nông nghiệp làm cơ sở xác định giá trị tài sản bảo đảm vay vốn ngân hàng.

- Quy định, thủ tục liên quan đến thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế nhập khẩu chưa hợp lý, chưa khuyến khích được doanh nghiệp sản xuất trong nước so với doanh nghiệp nhập khẩu. Còn nhiều loại thuế, phí trong nông nghiệp gây khó khăn, cản trở kinh doanh, làm tăng chi phí của doanh nghiệp như phí kiểm tra chất lượng thức ăn chăn nuôi, phí kiểm dịch thú y...

Vấn đề thứ ba, việc cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp là giải pháp rất quan trọng để nâng cao năng suất, nhưng ngành công nghiệp cơ khí hỗ trợ cho nông nghiệp ở  Việt Nam còn nhiều hạn chế về số lượng và chất lượng. Hiện nay, hầu hết máy móc thiết bị của doanh nghiệp đều phải nhập khẩu từ nước ngoài do ngành chế tạo máy phuc vụ nông nghiệp ở Việt Nam còn rất thô sơ, chưa đáp ứng nhu cầu thị trường.

Vấn đề thứ tư, khó khăn về giống cây trồng, vật nuôi: Hầu hết các doanh nghiệp hiện nay phải nhập khẩu giống cây trồng, vật nuôi từ nước ngoài. Một số doanh nghiệp phản ánh mặc dù phát hiện nhiều gen, giống cây trồng rất tốt từ các kết quả nghiên cứu trong nước, nhưng không thể hoặc rất khó tiếp cận và nhận chuyển giao từ các viện nghiên cứu của Nhà nước.

Vấn đề thứ năm, thị trường tiêu thụ không bền vững; chuỗi liên kết còn chưa chặt chẽ với các nhà phân phối bán lẻ lớn; chưa có tổ chức,cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp về phân tích, dự báo thị trường, khuyến nghị về sản lượng và giá bán. 

Việc tổ chức sản xuất theo các mô hình liên kết vẫn còn nhiều hạn chế do khả năng hợp tác, liên kết của người dân, doanh nghiệp còn yếu, vẫn còn xảy ra tình trạng dư thừa sản phẩm nông nghiệp ảnh hưởng tới thu nhập của người sản xuất.

Vấn đề thứ sáu, nhân lực đa số trình độ thấp, tính tự do, manh mún cao; chưa được đào tạo về tiến bộ của công nghệ, kỹ thuật. Lao động vùng nông thôn tuy dồi dào nhưng ý thức công nghiệp chưa cao, mất nhiều thời gian đào tạo và tuyên truyền vận động. Mối quan hệ giữa lao động nông thôn với các doanh nghiệp cũng chưa được gắn bó, ổn định.

Vấn đề thứ bảy, ưu đãi về đầu tư công nghệ trong nông nghiệp chưa đủ mạnh; còn nhiều rào cản đối với việc công nhận và đưa ra thị trường các sản phẩm công nghệ ứng dụng trong nông nghiệp; sản xuất đại trà còn chậm, mang tính nhỏ lẻ nên hiệu quả mang lại chưa cao.

Vấn đề thứ tám, hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp như giao thông, thủy lợi, hạ tầng nuôi trồng thủy sản... chưa phát triển làm tăng chi phí cải cải tạo, chi phí vận chuyển, bảo quản hàng nông sản.

Bên cạnh đó, thị trường các yếu tố đầu vào bất ổn, một số yếu tố đầu vào phải nhập khẩu như thuốc bảo vệ thực vật phải nhập khẩu 100%, kể cả dung môi phụ gia với thuế suất 10-20% dẫn đến giá thành cao, trong khi kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp có lợi nhuận biên thấp, rủi ro cao, chu kỳ kinh doanh lâu ...

Vấn đề thứ chín, nhiều thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh trong nông nghiệp còn bất hợp lý, chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển chưa được thực thi một cách nghiêm túc ở một số địa phương.

- Vấn đề chồng chéo trong quản lý, kiểm tra chuyên ngành vẫn chưa được giải quyết triệt để. Tình trạng một mặt hàng phải chịu sự kiểm tra của nhiều đơn vị khác nhau cùng thuộc Bộ đã và đang gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Thủ tục, thời gian kiểm tra chuyên ngành đối với nông sản xuất nhập khẩu còn bất hợp lý.

Vấn đề thứ mười, còn nhiều hạn chế trong quản lý nhà nước và truyền thông về an toàn thực phẩm, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.

          Thưa các quý vị đại biểu!        

Nông nghiệp Việt Nam còn nhiều dư địa để phát triển, đặc biệt là phát triển các sản phẩm hữu cơ, sản phẩm chế biến, có giá trị gia tăng cao và các sản phẩm ứng dụng công nghệ cao. Vì vậy, trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung vào một số nhóm giải pháp sau đây để giải quyết các khó khăn, vướng mắc nêu trên, khơi thông nguồn lực từ doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, cụ thể:

(i) Về phía các cơ quan Nhà nước: các Bộ, ngành, địa phương cần nghiêm túc và khẩn trương thực hiện các nhóm giải pháp chính sau:

Thứ nhất, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 19, Nghị quyết 35 về cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển doanh nghiệp một cách nghiêm túc và thực chất. Trong lĩnh vực nông nghiệp, đề nghị rà soát, chuẩn hóa các thủ tục hành chính và ban hành ở cấp Nghị định; nghiên cứu cắt giảm 40- 50% thủ tục hành chính hiện hành.

- Rà soát, tránh chồng chéo trong quản lý, kiểm tra, không để tình trạng một mặt hàng phải chịu sự quản lý của quá nhiều đơn vị; chuyển đổi phương thức quản lý theo hướng tăng hậu kiểm, giảm tiền kiểm.

Thứ hai, về tư liệu sản xuất trong nông nghiệp:

- Nhanh chóng có giải pháp tạo quỹ đất, quy hoạch các vùng đất nông nghiệp, vùng nguyên liệu minh bạch, ổn định. Nghiên cứu, sửa đổi chính sách tạo điều kiện cho việc chuyển đổi đất nông nghiệp, thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, người nông dân và doanh nghiệp.

- Xây dựng và tổ chức thí điểm các mô hình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp phục vụ sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp tại một số địa phương để ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích phù hợp.

Thứ ba, phải thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại phục vụ sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp.

- Cần ban hành chính sách đột phá về khoa học và công nghệ, khuyến khích các dự án đầu tư công nghệ trong một số lĩnh vực chủ lực như giống cây trồng; công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch; mô hình chuỗi cung cấp thực phẩm an toàn, truy xuất nguồn gốc....

- Cần có cơ chế nghiên cứu khảo nghiệm giống mới, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn tài nguyên về giống, kết quả nghiên cứu khoa học của các Viện, trường.

- Đẩy nhanh việc hình thành các Khu/ Trung tâm nông nghiệp công nghệ cao, trong đó phát triển, thử nghiệm các công nghệ tiên tiến, các mô hình đổi mới sáng tạo phục vụ cho nông nghiệp; quy tụ các nhà đầu tư, doanh nghiệp nông nghiệp, nhà nghiên cứu, tri thức…

Thứ tư, cần từng bước chủ động được thị trường, xây dựng thương hiệu nông nghiệp Việt Nam. Cần khẩn trương đổi mới mô hình đại diện thương mại ở nước ngoài để xúc tiến nông sản Việt Nam đối với các thị trường lớn, trọng tâm như Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc...

Thứ năm, khẩn trương tổ chức hướng dẫn triển khai có hiệu quả các Nghị định Chính phủ mới ban hành như: Nghị định 57/2018/NĐ-CP về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; Nghị định 58/2018/NĐ-CP về bảo hiểm nông nghiệp;  Nghị định 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Bên cạnh đó, cần khẩn trương ban hành Nghị định sửa đổi Nghị định số 55/2015 về chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp.

Thứ sáu, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong nông nghiệp

- Tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học-kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp; Hỗ trợ đào tạo nông dân; lao động trong trang trại; lao động trong doanh nghiệp nông nghiệp, thành viên hợp tác xã.

- Xây dựng và ban hành chính sách thu hút chuyên gia trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực nông nghiệp, kết nối với các doanh nghiệp nông nghiệp; thu hút người lao động có trình độ cao về hợp tác xã nông nghiệp.

(ii) Về phía các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp, đề nghị nâng cao chất lượng hoạt động, thực hiện tốt vai trò hỗ trợ các doanh nghiệp hội viên, là cầu nối hiệu quả giữa doanh nghiệp và Chính phủ; tổng hợp các kiến nghị, khó khăn và vướng mắc của doanh nghiệp đầu tư trong nông nghiệp, chuyển tới các cơ quan quản lý nhà nước để kịp thơi xử lý, giải quyết, tháo gỡ cho doanh nghiệp.

(iii) Đồng thời về phía cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân cần tiếp tục:

- Nêu cao tinh thần tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết, nỗ lực cùng Chính phủ và người dân Việt Nam chung sức đưa các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam vươn ra biển lớn thành công.

- Đẩy mạnh tái cơ cấu, tăng cường liên kết, hợp tác kinh doanh, phát huy vai trò đầu tàu trong chuỗi liên kết, chuỗi giá trị nông nghiệp; hỗ trợ nâng cao năng lực của các hộ nông dân, hợp tác xã theo hướng sản xuất nông sản sạch, nông sản hữu cơ;

- Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất kinh doanh bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng của Cách mạng công nghiệp 4.0; nâng cao năng lực quản trị, năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp.

Thưa các Quý vị tham dự Hội nghị, với tất cả những nỗ lực, sự quan tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và toàn thể hệ thống chính trị, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp, tôi tin tưởng rằng, các khó khăn, rào cản của doanh nghiệp sẽ sớm được tháo gỡ để thúc đẩy doanh nghiệp tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nhằm mở ra một trang mới tươi sáng hơn nữa cho ngành nông nghiệp Việt Nam nói riêng và đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung.

Cuối cùng, xin kính chúc sức khỏe Đồng chí Thủ tướng Chính phủ và toàn thể Quý vị tham dự Hội nghị. Chúc Hội nghị thành công tốt đẹp!

Xin trân trọng cảm ơn./.


Đánh giá bài viết

lượt đánh giá: , trung bình:

Tin liên quan

Tin khác