Thứ hai, 00/00/2023
°

Trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Ngày 28/02/2023 - 17:30:00 | 505 lượt xem
Xem cỡ chữ
Tương phản chữ
Đọc bài viết
Từ viết tắt

Nội dung kiến nghị (số 19 tại văn bản số 176/VPCP-QHĐP):

Hiện nay, tình hình thế giới đang khó khăn, nguy cơ Việt Nam ta đang đối mặt với tình hình lạm phát tăng cao. Để hạn chế thấp nhất ảnh hưởng suy thoái kinh tế thế giới cử tri đề nghị Chính phủ có giải pháp giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Đề nghị Chính phủ giảm, bỏ thuế tiêu thụ đặc biệt và ổn định nguồn cung xăng dầu phục vụ đời sống nhân dân cả nước.

Trả lời:

- Các giải pháp giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các bộ, ngành theo dõi sát, phân tích, dự báo tình hình thế giới, trong nước, nhất là chính sách của các nền kinh tế lớn, sự dịch chuyển, các xu hướng lớn toàn cầu và tác động đến nước ta, chủ động, kịp thời tham mưu, kiến nghị các giải pháp điều hành phù hợp. Trong đó, xác định mục tiêu ưu tiên là kiên trì giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn, nhất là an ninh lương thực, an ninh năng lượng, nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu, thích ứng của nền kinh tế; phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, tài khóa và các chính sách khác, phản ứng chính sách kịp thời, tận dụng mọi cơ hội để thúc đẩy quá trình phục hồi, phát triển KTXH và duy trì động lực tăng trưởng trong dài hạn, khai thác các động lực tăng trưởng mới. Đồng thời, thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc các bộ, cơ quan, địa phương đẩy mạnh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công; qua đó, đã huy động khối lượng vốn lớn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

- Về phát triển nông nghiệp: Thời gian qua, ngành nông nghiệp, nông thôn triển khai thực hiện kế hoạch trong điều kiện có những thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; trong đó thiên tai, dịch bệnh và xung đột quân sự Nga - Ukraine... tác động lớn đến đời sống, kinh tế, xã hội, làm đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu, tăng giá vật tư đầu vào và ảnh hưởng trực tiếp sản xuất và xuất nhập khẩu, tiêu thụ nông lâm thủy sản. Nhưng được sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đặc biệt Thủ tướng Chính phủ; toàn ngành đã bám sát thực tiễn, nỗ lực vượt khó, vươn lên, quyết liệt hành động với các giải pháp cơ cấu lại ngành, đổi mới mô hình tăng trưởng, khơi thông nguồn lực đầu tư. Vì vậy, nông nghiệp duy trì được đà tăng trưởng khá cao, phát triển toàn diện, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt, vượt mức Chính phủ giao, năm 2022 kết quả tiêu biểu như: (i). Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành 3,36%; (ii) Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 53,53 tỷ USD, tăng 9,9%, trong đó thặng dư thương mại trên 8,5 tỷ USD; (iii) Có 73,06% số xã đạt chuẩn nông thôn mới và 255 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; (iv) Tỷ lệ che phủ rừng đạt 42,02%. Qua đó, tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, tạo công ăn việc làm, sinh kế cho người dân; góp phần bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô.

Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 81-KL/TW ngày 29/7/2020 về bảo đảm an ninh lương thực quốc gia đến năm 2030, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 34/NQ-CP ngày 25/3/2021 về việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia đến năm 2030 trong đó bao gồm rất nhiều giải pháp để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Đặc biệt tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định định hướng “Nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia, quy mô sản xuất hàng hoá nông sản ngày càng lớn, bảo đảm môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu”. Do đó, vấn đề đảm bảo an ninh lương thực đang được Đảng, nhà nước và Chính phủ hết sức quan tâm chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương đang tích cực triển khai các giải pháp để nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao tại Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025; chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp, sản xuất sản phẩm có giá trị cao, đa dạng theo chuỗi giá trị, tích hợp đa giá trị vào sản phẩm, trong đó tập trung các nội dung sau:

(1). Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh theo hướng phát triển nông nghiệp sinh thái, hiện đại, kinh tế tuần hoàn, bảo đảm đáp ứng đầy đủ nhu cầu lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tổ chức lại sản xuất theo vùng chuyên canh, gắn với chỉ dẫn địa lý, truy suất nguồn gốc và xây dựng mã số vùng trồng, vùng nuôi. Phát triển kinh tế hợp tác, hỗ trợ hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị.

(2). Phát triển hệ thống lưu thông tạo điều kiện cho người tiêu dùng có khả năng tiếp cận trong mọi tình huống. Tăng cường hợp tác quốc tế; tháo gỡ rào cản kỹ thuật, phát triển thị trường xuất khẩu.

(3). Đẩy nhanh tiến độ giải ngân và nâng cao hiệu quả đầu tư công tạo động lực tăng trưởng ngành. Nâng cấp và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn phục vụ sản xuất lương thực, thực phẩm và đời sống nhân dân. Phát triển thủy lợi đa mục tiêu, nâng cao năng lực phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.

(4). Nâng cao trình độ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ; gia tăng chế biến để nâng cao năng suất, chất lượng lương thực, thực phẩm. Nghiên cứu chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi, quy trình thâm canh nhằm tăng năng suất, chất lượng, chống chịu dịch bệnh. Phát triển thị trường lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn bền vững; chú trọng đào tạo, huấn luyện hình thành đội ngũ nông dân thế hệ mới có kiến thức kinh tế, kỹ năng thích ứng với nền nông nghiệp xanh và thị trường.

(5). Thực hiện hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) xây dựng nông thôn mới, cùng các CTMTQG khác; gắn kết cơ cấu lại ngành với phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hoá, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững.

- Về tạo công ăn việc làm cho người lao động: Trong những năm qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách về việc làm như: Các chính sách hỗ trợ tạo việc làm: hỗ trợ vay vốn tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm và các nguồn tín dụng ưu đãi khác; hỗ trợ chuyển dịch việc làm đối với người lao động ở khu vực nông thôn, chính sách việc làm công; hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, hỗ trợ tạo việc làm cho các nhóm lao động yếu thế; hỗ trợ phát triển thị trường lao động: đa dạng hóa các hoạt động giao dịch việc làm hỗ trợ kết nối cung - cầu lao động, phát triển hệ thống thông thị trường lao động; chính sách về bảo hiểm thất nghiệp hỗ trợ người bị mất việc làm...

Đồng thời, nhằm đẩy mạnh hỗ trợ phát triển thị trường lao động, tạo việc làm cho người lao động, nhất là các đối tượng yếu thế, lao động nghèo, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt và chỉ đạo triển khai 03 CTMTQG; Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình.

Ngày 10/01/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 06/NQ-CP về hỗ trợ phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả và bền vững và hội nhập nhằm phục hồi nhanh kinh tế - xã hội, trong đó đặt ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp nhằm ổn định thị trường lao động, thúc đẩy tạo việc làm bền vững và sử dụng hiệu quả lực lượng lao động như: (i) Bám sát thực tiễn, quản trị nguồn nhân lực chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách phát triển thị trường lao động với các thị trường khác để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, trong đó có cung - cầu lao động; (ii) Khẩn trương rà soát, đánh giá nhu cầu nhân lực theo từng ngành, lĩnh vực, từng vùng để kịp thời kết nối, cung ứng lao động. Đặc biệt là đánh giá nhu cầu nhân lực của các nhà đầu tư nước ngoài đã có dự án và đang nghiên cứu đầu tư vào Việt Nam; (iii) Rà soát, đánh giá, sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống cơ sở đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; các tổ chức đánh giá kỹ năng nghề; (iv) Tổ chức thực hiện các biện pháp để giải quyết tình trạng thiếu lao động cục bộ, mất cân đối cung - cầu lao động; phát triển các hình thức giao dịch việc làm theo hướng hiện đại trên nền tảng công nghệ số; thu hút lao động tại chỗ, đào tạo, đào tạo lại cho lực lượng lao động đang làm việc thích ứng với những biến động bất thường; (v) Tăng cường đầu tư, phát triển các ngành kinh tế tạo nhiều việc làm bền vững, trong đó có giải pháp: Tăng cường đầu tư nguồn lực cho các chương trình, đề án tạo nhiều việc làm bền vững, nhất là việc làm năng suất cao; nghiên cứu đề xuất các chính sách để hỗ trợ tuyển dụng và sử dụng các nhóm lao động đặc thù, lao động yếu thế, lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, lao động sinh sống trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo tham gia thị trường lao động, có việc làm bền vững. Tăng cường các nguồn tín dụng để thúc đẩy tạo việc làm mới, sáng tạo, chất lượng cao, bền vững; việc làm xanh; việc làm cho đối tượng yếu thế, vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số; ưu tiên bố trí vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội có đủ nguồn lực triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng giải quyết việc làm, đào tạo nghề cho người lao động, góp phần phát triển thị trường lao động bền vững; (vi) Tập trung thực hiện các giải pháp để phân luồng, nâng cao chất lượng nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động; (vii) Tổ chức đào tạo, cung ứng kịp thời nhân lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ; (viii) Đầu tư phát triển hệ thống kết nối cung - cầu lao động, công tác dự báo cung - cầu lao động và hệ thống thông tin thị trường lao động với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động hiện đại, đồng bộ, có sự kết nối, chia sẻ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đăng ký doanh nghiệp, bảo hiểm xã hội; (ix) Hỗ trợ phát triển lưới an sinh và bảo hiểm cho người lao động thông qua tổ chức thực hiện các giải pháp thu hút, tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,… cho người lao động; đổi mới chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng tăng cường đào tạo và đào tạo lại cho người lao động để tham gia hiệu quả vào thị trường lao động; nâng cao mức sống, cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt của người lao động; đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động và bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người lao động; trước mắt tập trung phát triển nhà ở xã hội, nhà ở và hạ tầng xã hội khác cho người lao động, chính sách hỗ trợ tín dụng để giải quyết vấn đề về chỗ ở cho người lao động.

Trong thời gian tới, các bộ, ngành liên quan tiếp tục phối hợp để chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách trên, đồng thời tập trung thực hiện những giải pháp sau:

(1). Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách về việc làm: Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan về hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động trong Luật Việc làm (dự kiến trình Quốc hội năm 2024), trong đó có chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho các đối tượng yếu thế, lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân tộc thiểu số, lao động thuộc vùng khó khăn.

(2). Chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện đồng bộ có hiệu quả các chính sách khôi phục và phát triển thị trường lao động, kết nối việc làm; hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp gắn với giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân tộc thiểu số và miền núi ... thông qua 03 CTMTQG và Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Tăng cường bổ sung nguồn vốn và nâng cao hiệu quả cho vay giải quyết việc làm, nhất là nguồn ủy thác của địa phương qua Ngân hàng Chính sách xã hội và nguồn huy động của Ngân hàng Chính sách xã hội.

(3). Đẩy mạnh thực hiện lồng ghép chính sách việc làm công trong các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội để thực hiện hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động là người dân tộc thiểu số, lao động nghèo, lao động ở miền núi và vùng nông thôn còn khó khăn.

(4). Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, trọng tâm là xây dựng các cơ sở dữ liệu về lao động, việc làm đồng bộ, hiện đại, có sự kết nối, chia sẻ với các cơ sở dữ liệu quốc gia; nâng cao năng lực phân tích, dự báo thị trường lao động; kết nối cung - cầu lao động.

(5). Chỉ đạo hệ thống Trung tâm xây dựng cơ sở dữ liệu người tìm việc - việc tìm người, đa dạng hóa các hoạt động giao dịch việc làm, nhất là kết nối trực tuyến, từng bước hình thành sàn giao dịch việc làm trực tuyến, kết nối liên vùng, toàn quốc.

(6). Chủ động đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về việc làm cho người lao động, hướng tới các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, miền núi, nông thôn; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, chính sách, dự án việc làm tại địa phương.

- Việc giảm, bỏ thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB): Thuế TTĐB là loại thuế thu vào hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước không khuyến khích tiêu dùng (thuốc lá, rượu, bia,...), cần tiêu dùng tiết kiệm (xăng gốc hóa thạch), và những nhóm hàng hóa, dịch vụ được bộ phận người có thu nhập cao tiêu dùng cần phải điều tiết thu nhập (ô tô, máy bay, du thuyền, chơi gôn,...). Việc giảm, bỏ thuế TTĐB cần cân nhắc tới tổng thể cân đối ngân sách nhà nước và các cân đối lớn của nền kinh tế. Do vậy, Chính phủ sẽ giao Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, rà soát chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xăng dầu để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và cân đối ngân sách nhà nước; tổng hợp, báo cáo Quốc hội.

Theo quy định của Luật Thuế TTĐB thì chỉ thu thuế TTĐB đối với xăng các loại, không thu thuế TTĐB đối với dầu. Luật Thuế TTĐB không quy định giảm thuế, miễn thuế đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB. Về thẩm quyền, việc thực hiện điều chỉnh thuế suất thuế TTĐB thuộc thẩm quyền của Quốc hội nên phải trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Đối với mặt hàng xăng: Xăng là nhiên liệu gốc hóa thạch, không tái tạo cần phải sử dụng tiết kiệm nên hầu hết các nước đều thu thuế TTĐB đối với mặt hàng xăng. Tại Việt Nam, mặt hàng xăng thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB từ năm 1995. Quy định này là phù hợp với mục tiêu của thuế TTĐB và phù hợp với thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, trong bối cảnh ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu đang là vấn đề toàn cầu, cam kết của Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị COP26 về đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, cùng với các giải pháp khác thì việc thu thuế TTĐB đối với xăng như hiện nay là phù hợp, góp phần giảm phát thải.

Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XV, trên cơ sở chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã trình Quốc hội phương án giảm thuế TTĐB đối với xăng và thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với xăng dầu. Tuy nhiên, ngày 11/11/2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) có Báo cáo số 362/BC-UBTVQH15 về việc tiếp thu, giải trình về đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2022, dự toán ngân sách nhà nước năm 2023 và Dự thảo Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2023, theo đó UBTVQH có ý kiến như sau: “Các dự báo xu thế giá dầu thô thế giới năm 2023 là thấp hơn so với giá dầu năm 2022; bên cạnh đó, cùng với các chỉ số tích cực về kinh tế vĩ mô trong nước hiện nay, thì việc thiết kế cơ chế "dự phòng" trong điều hành giá xăng dầu trong nước thông qua thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng là chưa thực sự cần thiết. Ngoài ra, năm 2023, bên cạnh các biện pháp điều hành thị trường xăng dầu trong nước, vẫn có dư địa sử dụng công cụ thuế bảo vệ môi trường như đã thực hiện trong năm 2022. Do đó, UBTVQH xin Quốc hội cho phép không bổ sung nội dung này trong dự thảo Nghị quyết".

Căn cứ ý kiến của UBTVQH nêu trên và bối cảnh kinh tế - xã hội, ngày 15/11/2022, Bộ Tài chính đã có Công văn số 11881/BTC-CST báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép dừng việc xây dựng dự án Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế TTĐB đối với xăng và thuế GTGT đối với xăng dầu.

Đồng thời thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, căn cứ dự báo diễn biến tình hình giá xăng dầu thế giới và yêu cầu kiềm chế lạm phát, đảm bảo ổn định vĩ mô, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ, trình UBTVQH ban hành Nghị quyết số 30/2022/UBTVQH15 ngày 30/12/2022 về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn.

- Về việc ổn định nguồn cung xăng dầu:

Tại khoản 24 Điều 1 Nghị định số 95/2021/NĐ-CP ngày 01/11/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 83/2014/NĐ- CP ngày 03/9/2014 về kinh doanh xăng dầu quy định về tổng nguồn xăng dầu tối thiểu như sau: “Bộ Công Thương có trách nhiệm xác định nhu cầu định hướng về tổng nguồn xăng dầu của năm tiếp theo; giao tổng nguồn xăng dầu tối thiểu phục vụ tiêu thụ nội địa cả năm theo cơ cấu chủng loại cho từng thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu; chịu trách nhiệm kiểm tra, bảo đảm tổng nguồn xăng dầu tối thiểu của các thương nhân, bảo đảm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và tiêu dùng của xã hội"; vì vậy đối với việc ổn định nguồn cung xăng dầu đề nghị Bộ Công Thương cơ quan chủ trì, quản lý nhà nước về xăng dầu trả lời.


Đánh giá bài viết

lượt đánh giá: , trung bình:

Tin liên quan

Tin khác