Nội dung kiến nghị số 1:
Cử tri đánh giá cao kết quả kinh tế - xã hội đạt được trong những tháng đầu năm 2019. Cử tri đề nghị Chính phủ tiếp tục có các chính sách điều hành hiệu quả để đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, bình ổn giá cả thị trường; tập trung cải cách hành chính, tăng cường tính minh bạch, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư; quan tâm kiểm soát chặt chẽ vấn đề nợ công.
Trả lời:
1. Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2019 đạt được một số kết quả, bao gồm: GDP tăng 6,76%, thấp hơn mức tăng của nửa đầu năm 2018 nhưng cao hơn cùng kỳ giai đoạn 2011-2017. Kết quả này không cách xa mục tiêu tăng trưởng đặt ra cho cả năm 2019 (6,8-7,0%). Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tương đối cao so với các nước trong khu vực. Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà mở rộng tăng trưởng, tuy nhiên tăng trưởng GDP tiềm năng vẫn giữ xu hướng giảm, phản ánh lo ngại về chất lượng tăng trưởng chưa được củng cố- đặc biệt khi Việt Nam lưu tâm hơn đến ứng phó với tác động bất lợi từ môi trường kinh tế bên ngoài.
Khu vực nông - lâm - thủy sản tăng trưởng ở mức 2,39% trong 6 tháng đầu năm thấp hơn cùng kỳ năm 2017 - 2018, chủ yếu do (i) suy giảm tăng trưởng kinh tế thế giới ảnh hưởng đến cầu nông sản; (ii) không ít thị trường nhập khẩu tăng cường áp dụng hàng rào kỹ thuật đối với nhập khẩu nông sản, kể cả Trung Quốc và một số thị trường CPTPP. Khu vực công nghiệp - xây dựng đạt tốc độ tăng giá trị gia tăng ở mức 8,93% trong 6 tháng đầu năm. Quý II ghi nhận bước tăng trưởng dương trở lại của phân ngành khai khoáng, ở mức 1,78% - lần đầu tiên sau ba năm liên tục giảm. Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng dòng vốn đầu tư vào phân ngành chế biến, chế tạo, đặc biệt là từ Trung Quốc. Khu vực dịch vụ ít có chuyển biến lớn, chỉ tăng trưởng 6,69% trong 6 tháng đầu năm.
Sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp có phần rõ nét hơn. Các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đánh giá lạc quan hơn về tình hình sản xuất kinh doanh. Những đánh giá tương đối tích cực này có thể xuất phát từ việc: (i) môi trường đầu tư - kinh doanh tiếp tục được cải thiện; (ii) Việt Nam đã đi vào thực hiện CPTPP và chuẩn bị cho việc thực hiện EVFTA; và (iii) nhiều nhà đầu tư nước ngoài nhìn nhận Việt Nam gia tăng sự hấp dẫn tương đối trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
Tình hình việc làm có cải thiện có nhiều cải thiện trong 6 tháng đầu năm 2019. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong toàn nền kinh tế ước tính là 55,5 triệu người, tăng 335,1 nghìn người so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, đánh giá về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất tương lai, Việt Nam xếp hạng 70/100 về nguồn nhân lực và 81/100 về lao động có chuyên môn cao, và chưa sẵn sàng cho cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0. Theo đó, Việt Nam cần xây dựng và thực thi hữu hiệu hơn các chính sách thị trường lao động chủ động, cũng như giải pháp đào tạo nhân lực, giáo dục nghề nghiệp.
CPI bình quân tăng 2,61% trong 7 tháng đầu năm, chủ yếu do (i) tăng chỉ số giá nhóm hàng thực phẩm; (ii) điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu trong nước và tác động của điều chỉnh giá biểu thuế bảo vệ môi trường với xăng dầu; và (iii) tác động của tăng giá điện từ cuối tháng 3 được phản ánh vào CPI quý II. Lạm phát cơ bản bình quân trong 3 tháng đầu năm và 7 tháng đầu năm đều cao hơn hẳn so với các năm 2017-2018 đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ một cách thận trọng.
Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tính chung 6 tháng đầu năm, đạt 822,9 nghìn tỷ đồng, tăng 10,3%. Tỷ lệ đầu tư so với GDP đạt 33,1%. Khu vực dân doanh vẫn giữ vị trí hàng đầu với tăng trưởng đầu tư trong 6 tháng ở mức 2 con số (16,4%). Cơ cấu các nguồn đầu tư tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng đầu tư từ khu vực nhà nước và tăng tỷ trọng đầu tư từ khu vực FDI và đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân. Tổng vốn FDI đăng ký đạt hơn 20,2 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm.
Tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa ước đạt 145,48 tỷ USD, tăng 7,8% trong 7 tháng đầu năm. Mức tăng này thấp hơn nhiều so với cùng kỳ các năm 2017 - 2018, chủ yếu do: (i) suy giảm thương mại toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh leo thang căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc; (ii) tỷ trọng lớn trong xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực FDI; và (iii) xuất khẩu nhóm hàng nông, thủy sản gặp nhiều khó khăn cả về giá và các yêu cầu, quy định của một số thị trường nhập khẩu. Nhập khẩu đạt 143,78 tỷ USD, tăng 8,6% trong 6 tháng đầu năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 2.804,8 nghìn tỷ đồng trong 7 tháng đầu năm, tăng 11,6%.
Kết quả cập nhật dự báo của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho thấy tăng trưởng kinh tế năm 2019 (cập nhật) có thể đạt mức 6,82%. Tăng trưởng xuất khẩu cả năm dự báo ở mức 8,02%. Thặng dư thương mại dự báo ở mức 0,8 tỷ USD. Lạm phát bình quân năm 2019 đạt 3,38%.
2. Diễn biến kinh tế vĩ mô trong các tháng cuối năm có thể chịu ảnh hưởng của một số yếu tố: Thứ nhất, rủi ro suy thoái của kinh tế thế giới được đề cập nhiều hơn, dù có thể chưa xảy ra ngay trong các tháng cuối năm 2019. Xu hướng thắt chặt tài chính ở Mỹ đã bị thay thế bởi việc phòng ngừa suy thoái kinh tế: FED đã hạ lãi suất, dù cuối quý I còn nói về khả năng không tăng lãi suất. Xu hướng nới lỏng chính sách có thể kéo theo giảm giá đồng nội tệ ở nhiều nước. Thứ hai, căng thẳng thương mại ở khu vực chưa hạ nhiệt. Chiến tranh thương mại - công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc còn diễn biến phức tạp, và không loại trừ sẽ còn một số khúc quanh trong nửa cuối năm. Đối đầu thương mại giữa Nhật và Hàn Quốc thậm chí còn tác động trực tiếp và nhanh hơn đối với Việt Nam. Thứ ba, hàng xuất khẩu của Việt Nam có thể gặp phải nhiều vụ kiện phòng vệ thương mại, điều tra chống lẩn tránh thuế, gian lận xuất xứ... không chỉ ở thị trường Mỹ. Thứ tư, sự đối đầu giữa các công nghệ mới và tư duy quản lý truyền thống ngày một phức tạp hơn, ngay cả ở các thị trường phát triển.
3. Định hướng điều hành trong thời gian tới
a, Định hướng điều hành chung trong thời gian tới:
- Tái khẳng định ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, tạo dựng thêm dư địa cho điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, vận dụng các chính sách kinh tế vĩ mô linh hoạt để ứng phó với các diễn biến bất lợi của kinh tế thế giới và khu vực (đặc biệt diễn biến căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc).
- Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại các lĩnh vực, trong đó đẩy mạnh phát triển về chất lượng nhằm tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế trước những biến động khó lường của kinh tế và thương mại thế giới.
- Đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại, cổ phần hóa và thoái vốn DNNN; xây dựng và ban hành công khai, minh bạch kế hoạch cụ thể sử dụng vốn thu được từ thoái vốn DNNN, công khai các DNNN chậm trễ trong việc thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn, niêm yết, gắn với trách nhiệm cá nhân để có giải pháp xử lý nghiêm và hiệu quả.
- Khắc phục tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất, không rõ ràng của các quy định pháp luật và cơ chế chính sách; xây dựng hành lang pháp lý để quản lý và tạo điều kiện phát triển các hoạt động đổi mới sáng tạo, các mô hình kinh doanh mới trong bối cảnh CMCN 4.0.
- Tăng cường cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành, cắt giảm và đơn giản hóa điều kiện kinh doanh để tiếp tục cải thiện, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, bình đẳng.
- Chủ động trao đổi, hợp tác với các đối tác nhằm thực thi hiệu quả CPTPP, vận động phê chuẩn EVFTA, và nhanh chóng hoàn thành cơ bản đàm phán RCEP. Tiếp tục vận động các đối tác công nhận quy chế kinh tế thị trường đầy đủ cho Việt Nam. Theo dõi, đánh giá các động thái mới của các nước lớn với các nền kinh tế chưa có quy chế thị trường để kiến nghị hướng xử lý.
- Tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để thực thi CPTPP và chuẩn bị cho việc thực thi EVFTA và EVIPA. Ban hành Luật sửa một số luật để thực thi CPTPP. Tiếp tục rà soát nội dung cam kết trong các FTA và điều ước quốc tế mà Việt Nam đang đàm phán, đã hoàn tất đàm phán và đã ký kết để có những điều chỉnh về quy định pháp luật phù hợp.
- Tiếp tục cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về các FTA mà Việt Nam đã đàm phán và ký kết; hỗ trợ và hướng dẫn doanh nghiệp tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để thực hiện hài hòa các hiệp định FTA, đặc biệt là ứng phó với các hàng rào kỹ thuật ở các đối tác.
b) Về điều hành chính sách tiền tệ:
- Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, đảm bảo kiểm soát lạm phát theo mục tiêu.
- Tăng trưởng tín dụng phù hợp, đi đôi với kiểm soát chất lượng tín dụng, đáo ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế; củng cố dự trữ ngoại hối phù hợp với điều kiện thực tế.
- Tiếp tục triển khai cơ cấu lại, gắn với xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các tổ chức tín dụng yếu kém, đảm bảo an toàn hệ thống.
- Đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, đặc biệt là thanh toán qua ngân hàng đối với dịch vụ công.
c) Về điều hành chính sách thương mại:
- Mở rộng thị trường xuất khẩu chính sách, ngăn chặn việc bán phá giá vào thị trường nội địa. Nghiên cứu các giải pháp đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu để bảo đảm tăng trưởng xuất khẩu bền vững.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, đặc biệt là gian lận xuất xứ hàng hóa. Nâng cao năng lực quản lý cạnh tranh, chống trợ cấp, chống bán phá giá, giải quyết tranh chấp thương mại và quản lý thị trường.
- Triển khai hiệu quả cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN, tạo thuận lợi thương mại.
- Bảo đảm hài hòa hòa các cam kết và yêu cầu kỹ thuật liên quan (nhất là về quy định xuất xứ, các quy định liên quan đến nông sản). Hoàn thiện thể chế liên quan đến các vấn đề như sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm..., tạo thuận lợi cho đàm phán và thực thi các hiệp định thương mại và đầu tư.
d) Về điều hành chính sách đầu tư:
- Rà soát và đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công năm 2019.
- Tăng cường theo dõi, đánh giá dòng vốn đầu tư; định hướng thu hút FDI trong bối cảnh mới. Khuyến khích, động viên các nhà đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
- Nghiên cứu, ban hành chiến lược, các biện pháp thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp nước ngoài, trên cơ sở không trái với cam kết và thông lệ quốc tế, có sự đồng thuận của nhà đầu tư.
Nội dung kiến nghị số 2:
Về thực hiện Nghị quyết 54/2017/QH14 về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hồ Chí Minh:
- Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành tích cực phối hợp với Thành phố đối với các đề án có liên quan thuộc thẩm quyền: Đề án phối hợp các Bộ, ngành Trung ương thực hiện rà soát việc sắp xếp lại và xử lý các nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước do các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc trung ương quản lý trên địa bàn thành phố; Đề án ứng vốn ngân sách Thành phố cho Trung ương thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 3 trên địa bàn thành phố; Đề án mô hình cơ quan chuyên trách quản lý vốn doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Căn cứ đề xuất cụ thể của Thành phố trên từng nội dung, lĩnh vực, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, sớm điều chỉnh các Nghị định, Thông tư theo hướng phân cấp mạnh mẽ cho Thành phố chủ động thực hiện các quy trình, thủ tục phù hợp với khả năng và tình hình thực tiễn của Thành phố, phục vụ tốt hơn nhu cầu của cá nhân và tổ chức trên địa bàn; ban hành Nghị định của Chính phủ về phân cấp quản lý một số lĩnh vực cho thành phố Hồ Chí Minh (thực tế các nội dung ủy quyền theo Nghị quyết 54 chủ yếu điều chỉnh một số Luật thuộc thẩm quyền của Quốc hội, thực tế còn nhiều cơ chế bất cập được quy định trong các Nghị định, Thông tư không phù hợp với thực tiễn thành phố, gây nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện cần đề xuất điều chỉnh, phân cấp, ủy quyền cho Thành phố thực hiện).
- Việc triển khai các đề án liên quan tổ chức bộ máy cho thấy việc giảm biên chế đối với Thành phố là một vấn đề khó khăn do dân số tăng nhanh, đặt ra yêu cầu về nhân lực quản lý nhà nước, an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội (một số phường có trên dưới 100.000 dân). Thành phố phải bổ sung biên chế cho các bệnh viện, trường học xây dựng mới nhằm khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện, sĩ số học sinh trên lớp còn cao, tỷ lệ học sinh học 02 buổi/ngày càng giảm, phải tăng cường đầu tư trường mầm non ở các khu vực khó khăn (công nhân, lao động nghèo,…). Quy mô quản lý nhà nước trên từng lĩnh vực của thành phố khối lượng nhiều, phức tạp, việc đầu tư xây dựng các bệnh viện, trường học tại thành phố là một phần phục vụ cho người dân trong cả nước. Do đó, Thành phố cần có cơ chế đặc thù về biên chế để đảm bảo các công việc được thông suốt ở từng khâu, bộ phận chuyên môn và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.
- Về tài chính, ngân sách: nhằm tạo điều kiện không chỉ riêng cho thành phố Hồ Chí Minh mà còn cho các địa phương có tiềm lực phát triển nhanh, bền vững, đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước, cần thiết nghiên cứu một cơ chế phân cấp quản lý ngân sách hợp lý, tiêu chí phân bổ ngân sách công bằng làm cơ sở để xác định tỷ lệ điều tiết các khoản thu phân chia ngân sách hợp lý. Đề xuất cần có một Chương trình hoặc Dự án nghiên cứu hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý ngân sách do Cơ quan Trung ướng chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành và các địa phương liên quan thực hiện, báo cáo trình có quan có thẩm quyền (Bộ Chính trị, Quốc hội) cho ý kiến để khắc phục những bất cập khi thực hiện quy định về tỷ lệ điều tiết hiện nay. Trước mắt, trong năm 2019 kiến nghị giao Ban Kinh tế Trung ương cùng thành phố Hồ Chí Minh có Đề án nghiên cứu tình hình của thành phố, có so sánh mặt bằng chung của cả nước về cơ chế phân cấp quản lý ngân sách, nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ ngân sách phù hợp với yêu cầu của việc phát triển kinh tế - xã hội; quy định về tỷ lệ điều tiết các khoản thu phân chia ngân sách cho ngân sách Thành phố; cơ cấu thu chi ngân sách, cơ cấu nguồn vốn đầu tư toàn xã hội để tính được hiệu quả huy động vốn đầu tư xã hội, của vốn ngân sách; hiệu quả đầu tư công… để từ đó đề xuất hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý ngân sách giữa ngân sách Trung ương và ngân sách Thành phố; xác định tỷ lệ điều tiết các khoản thu phân chia ngân sách hợp lý, tạo điều kiện cho Thành phố có nguồn lực để phát triển nhanh, bền vững theo đúng định hướng của Đảng, Nhà nước theo đúng Điều 8 Nghị quyết 54/2017/QH14.
Trả lời:
1) Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành tích cực phối hợp với Thành phố đối với các đề án có liên quan:
- Đề án ứng vốn ngân sách Thành phố cho Trung ương thực hiện dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 3 (Dự án) trên địa bàn thành phố: hiện nay, Bộ Giao thông vận tải đã có đề xuất vay vốn ADB để thực hiện Dự án. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cùng ADB và các cơ quan khác đã thống nhất và ký Biên bản ghi nhớ (MOU) giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư và ADB để đưa dự án này vào tài khóa 2022 (với tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 416 triệu USD), do đó Dự án chưa đủ hiệu lực pháp lý để tiến hành các thủ tục về vốn.
- Đề án mô hình cơ quan chuyên trách quản lý vốn doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh: Vấn đề này Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xử lý và quản lý theo chế độ mật.
2) Một số kiến nghị khác:
- Việc rà soát việc sắp xếp lại và xử lý các nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước do các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc trung ương quản lý trên địa bàn thành phố; cơ chế phân cấp quản lý ngân sách giữa ngân sách Trung ương và ngân sách Thành phố; xác định tỷ lệ điều tiết các khoản thu phân chia ngân sách hợp lý: Đề nghị chuyển Bộ Tài chính để trả lời cử tri.
- Cơ chế đặc thù về biên chế: Đề nghị chuyển Bộ Nội vụ để trả lời cử tri./.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư