Thứ hai, 00/00/2023
°

Tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2022 của tỉnh Ninh Bình

Ngày 29/03/2022 - 10:41:00 | 314 lượt xem
Xem cỡ chữ
Tương phản chữ
Đọc bài viết
Từ viết tắt

Kinh tế - xã hội quý I năm 2022 của tỉnh diễn ra trong bối cảnh tình hình chính trị thế giới có nhiều biến động, nhất là căng thẳng chính trị giữa các nước lớn, xung đột vũ trang giữa Nga và Ukraine; sự phục hồi kinh tế tại các quốc gia còn thiếu ổn định, không đồng đều. Ở trong nước, chi phí đầu vào cho sản xuất tăng, tiềm ẩn nguy cơ thiếu hụt cục bộ xăng dầu, vẫn còn tình trạng ùn tắc hàng hóa, nông sản tại các cửa khẩu biên giới.

Trên địa bàn tỉnh, dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, một bộ phận lao động phải nghỉ việc để cách ly y tế cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, tăng cường điều kiện, lực lượng tập trung cho công tác phòng, chống dịch, đảm bảo sức khỏe, đời sống của Nhân dân, đồng thời tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Dưới đây là một số kết quả đã đạt được:

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Quý I năm 2022, các địa phương trong tỉnh tập trung thu hoạch cây vụ Đông, nhất là với diện tích canh tác trên đất lúa, tạo quỹ đất để triển khai sản xuất vụ Xuân; thực hiện chăm sóc cây giống phục vụ trồng cây và trồng rừng; dịch tả lợn Châu Phi có xu hướng thuyên giảm, chăn nuôi lợn tiếp đà phục hồi, chăn nuôi gia cầm phát triển tốt; sản xuất thủy sản phát triển ổn định.

1.1. Nông nghiệp

1.1.1. Trồng trọt

Sản xuất vụ Đông được triển khai với quy mô hợp lý, sản xuất gắn liền với tiêu thụ, đã hình thành nhiều vùng sản xuất rau, quả tập trung, ứng dụng công nghệ cao, mang lại chất lượng sản phẩm tốt và nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân. Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông năm 2021-2022 trên địa bàn toàn tỉnh đạt 8,1 nghìn ha, giảm 6,5% (- 0,6 nghìn ha) so với cùng vụ năm trước. Kết quả sản xuất một số cây trồng chủ yếu trong vụ như sau:

Cây ngô: diện tích gieo trồng đạt gần 1,5 nghìn ha, giảm 22,2% (- 0,4 nghìn ha); năng suất ước đạt 39,5 tạ/ha, tăng 0,3% (+ 0,1 tạ/ha); sản lượng ước đạt trên 5,8 nghìn tấn, giảm 22,1% (- 1,7 nghìn tấn).

 Cây khoai lang: diện tích gieo trồng đạt trên 0,4 nghìn ha, tăng 7,9% (+ 31 ha); năng suất ước đạt 94,9 tạ/ha, giảm 0,3% (- 0,3 tạ/ha); sản lượng ước đạt trên 4,0 nghìn tấn, tăng 7,7% (+ 0,3 nghìn tấn).

 Cây đậu tương: diện tích gieo trồng đạt trên 58 ha, giảm 74,0% (- 165 ha); năng suất ước đạt 14,2 tạ/ ha, tăng 6,0% (+ 0,8 tạ/ha); sản lượng ước đạt 83,0 tấn, giảm 72,2% (- 216 tấn).

 Cây lạc: diện tích gieo trồng đạt trên 0,2 nghìn ha, tăng 11,4% (+ 22,0 ha); năng suất ước đạt 24,9 tạ/ha, tăng 0,4% (+ 0,1 tạ/ha); sản lượng ước đạt 533 tấn, tăng 11,5%  (+ 55 tấn).

Các loại rau: diện tích gieo trồng đạt gần 5,0 nghìn ha, giảm 1,8% (- 90 ha); năng suất ước đạt 215,7 tạ/ha, giảm 0,2% (- 0,4 tạ/ha); sản lượng ước đạt trên 106,8 nghìn tấn, giảm 2,0% (- 2,1 nghìn tấn) so với cùng vụ năm trước.

Sản xuất vụ Xuân: các địa phương trong tỉnh đã hoàn thành việc gieo cấy lúa và tiếp tục trồng màu vụ Xuân. Đến ngày 22/3/2022, diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Xuân ước đạt 46,4 nghìn ha, trong đó diện tích lúa đạt gần 39,9 nghìn ha; ngô đạt 1,6 nghìn ha; khoai lang đạt 0,1 nghìn ha; lạc 1,9 nghìn ha; rau, đậu các loại đạt trên 2,7 nghìn ha...

Hiện nay, thời tiết ấm áp, thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng và phát triển; sâu bệnh xuất hiện rải rác, mức độ hại nhẹ. Đến ngày 22/3/2022 diện tích lúa được chăm sóc đợt 1 đạt 38,3 nghìn ha, bằng 95,9% diện tích lúa đã cấy; chăm sóc đợt 2 đạt 5,4 nghìn ha, bằng 13,6%.

1.1.2. Chăn nuôi

Trong quý I năm 2022, dịch bệnh trên đàn vật nuôi được kiểm soát tương đối tốt, bệnh viêm da nổi cục, bệnh cúm gia cầm đã được khống chế, góp phần ổn định tình hình sản xuất chăn nuôi. Giá sản phẩm chăn nuôi trong dịp Tết Nguyên đán tăng nhẹ, giúp người chăn nuôi giảm bớt khó khăn. Tuy nhiên, tại một số địa phương vẫn còn dịch tả lợn Châu Phi. Đến hết ngày 21/3/2021 trên địa bàn tỉnh còn 13 xã thuộc 6 huyện, thành phố dịch bệnh chưa qua 21 ngày. Tính từ đầu năm đến hết ngày 21/3/2021, số lượng lợn đã tiêu hủy do dịch tả lợn Châu Phi là 1.927 con với trọng lượng 78,4 tấn (trừ những xã không phát sinh từ 60 ngày trở lên).

Tại thời điểm báo cáo, đàn trâu ước đạt 12,7 nghìn con, tăng 0,5% (+ 67 con) so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò ước đạt 36,9 nghìn con, tăng 0,2%          (+ 63 con); đàn lợn ước đạt 263,7 nghìn con, tăng 4,6% (+ 11,6 nghìn con); đàn gia cầm ước đạt gần 5.731,5 nghìn con, tăng 8,7% (+ 457,4 nghìn con); trong đó đàn gà ước đạt 3.846 nghìn con, tăng 6,9% (+ 247,3 nghìn con).

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng trong quý I ước đạt trên 13,6 nghìn tấn, tăng 5,5% (+ 0,7 nghìn tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 0,3 nghìn tấn, tăng 0,6% (+ 2,0 tấn); thịt bò hơi ước đạt 0,8 nghìn tấn, tăng 0,7% (+ 5,0 tấn); thịt lợn hơi ước đạt 8,9 nghìn tấn, tăng 7,2% (+ 0,6 nghìn tấn); thịt gia cầm hơi ước đạt 3,1 nghìn tấn, tăng 2,9% (+ 86,0 tấn). Sản lượng trứng gia cầm ước đạt 33,8 nghìn quả, tăng 1,8% (+ 0,6 nghìn quả) so với cùng kỳ năm trước.

Công tác kiểm tra, giám sát về tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm vẫn được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm như khoanh vùng dịch, khống chế không để dịch bệnh lây lan. Tuy nhiên, thời tiết nồm ẩm dễ gây bệnh trên đàn vật nuôi, giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng cao cũng là những khó khăn gây ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất chăn nuôi.

1.2. Lâm nghiệp

Tiếp tục thực hiện chương trình trồng 1 tỷ cây xanh của Chính phủ, thực hiện Chỉ thị 9095/CT-BNN-TCLN ngày 30/12/2021 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về tổ chức phong trào “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” nhân dịp xuân Nhâm Dần và tăng cường các biện pháp bảo vệ, phát triển rừng năm 2022, trong tháng Ba, số cây trồng phân tán ước đạt 166,0 nghìn cây, tăng 5,3% (+ 8,3 nghìn cây) so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả quý I, ước tính toàn tỉnh trồng được 271,1 nghìn cây phân tán, tăng 6,7% (+ 17,1 nghìn cây).

Diện tích trồng rừng mới tập trung tháng Ba ước đạt 0,04 nghìn ha, tương đương với cùng kỳ năm trước. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 4,0 nghìn m3, giảm 7,7% (- 0,3 nghìn m3); sản lượng củi khai thác ước đạt 2,8 nghìn ste, giảm 4,0% (- 0,1 nghìn ste). Tính chung lại, trong quý I năm 2022, diện tích rừng mới tập trung ước đạt 0,05 nghìn ha; sản lượng gỗ khai thác ước đạt 5,5 nghìn m3, giảm 9,8% (- 0,6 nghìn m3); sản lượng củi khai thác ước đạt 6,7 nghìn ste, giảm 10,7% (- 0,8 nghìn ste).

Công tác quản lý, bảo vệ và phòng chống cháy rừng luôn được các cấp, các ngành quan tâm và chỉ đạo sát sao, trong quý I năm 2022 trên địa bàn tỉnh không có vụ cháy rừng nào xảy ra.

1.3. Thuỷ sản

Tình hình sản xuất thủy sản trong quý I năm 2022 trên địa bàn tỉnh phát triển ổn định, không bị ảnh hưởng của dịch bệnh. Các hộ nuôi trồng thủy sản tập trung thu hoạch diện tích nuôi cá ruộng để thực hiện công tác gieo cấy vụ Đông Xuân năm 2022, đồng thời thu hoạch những ao nuôi đạt kích cỡ thương phẩm phục vụ nhu cầu của người dân và tiếp tục chăm sóc các diện tích đang được thả nuôi để cung cấp thực phẩm cho thị trường.

Sản lượng thủy sản trong tháng Ba ước đạt 5,7 nghìn tấn, tăng 4,5%           (+ 246 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 5,0 nghìn tấn, tăng 5,5% (+ 261 tấn); sản lượng thủy sản khai thác đạt 0,7 nghìn tấn, giảm 0,6% (- 15 tấn). Tính chung lại, sản lượng thủy sản quý I năm 2022 ước đạt gần 15,8 nghìn, tăng 4,8% (+ 720 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 14,2 nghìn tấn, tăng 5,4%    (+ 730 tấn); sản lượng thủy sản khai thác đạt 1,6 nghìn tấn, giảm 0,6% (- 10 tấn).

2. Sản xuất công nghiệp

Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, phát sinh nhiều ổ dịch tại các khu, cụm công nghiệp dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn lao động cho sản xuất, cùng với đó là khó khăn trong nhập nguyên liệu đầu vào cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra buộc các doanh nghiệp sản xuất phải cắt giảm thời gian sản xuất. Vì thế so với cùng kỳ năm trước, sản xuất công nghiệp của tỉnh trong tháng có sự sụt giảm, tính chung cả quý I năm nay có mức tăng nhẹ.  

Chỉ số công nghiệp (IIP): Chỉ số IIP toàn tỉnh tháng Ba ước tính giảm 6,15% so với tháng 3/2021. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 30,46%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 6,05%; sản xuất và phân phối điện giảm 6,31%; duy nhất cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,77%.

So với tháng trước (tháng 02/2022), chỉ số IIP tháng này tăng 18,15%. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 7,97%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 18,34%; sản xuất và phân phối điện tăng 17,68%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,34%.

Tính chung quý I năm 2022, chỉ số IIP toàn tỉnh tăng 0,1%. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 16,94%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,51%; sản xuất và phân phối điện giảm 9,59%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,51%.

Giá trị sản xuất: Tính theo giá so sánh 2010, giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh tháng Ba ước đạt trên 7.620,6 tỷ đồng, giảm 5,2% so với tháng 03/2021. Trong đó: khai khoáng ước đạt 51,0 tỷ đồng, giảm 12,9%; công nghiệp chế biến, chế tạo 7.472,5 tỷ đồng, giảm 5,2%; sản xuất và phân phối điện 81,4 tỷ đồng, giảm 2,8%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 15,7 tỷ đồng, tăng 1,6%. So với tháng trước, giá trị sản xuất công nghiệp tháng Ba tăng khá cao 15,5%, trong đó: khai khoáng tăng 9,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 15,6%; sản xuất và phân phối điện tăng 13,1%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,4%.

Tính chung lại, giá trị sản xuất công nghiệp quý I năm 2022 toàn tỉnh ước đạt 21.860,9 tỷ đồng, tăng 1,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: khai khoáng ước đạt 142,8 tỷ đồng, giảm 3,7%; công nghiệp chế biến, chế tạo 21.451,2 tỷ đồng, tăng 1,5%; sản xuất và phân phối điện 222,7 tỷ đồng, giảm 3,8%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải 44,2 tỷ đồng, tăng 1,6%.

Sản phẩm công nghiệp chủ yếuMột số sản phẩm công nghiệp chủ yếu ước thực hiện tháng Ba năm 2022 tăng khá so với cùng kỳ như: nước dứa tươi 0,2 triệu lít, tăng 17,6%; hàng thêu 0,6 triệu m2, gấp 6,3 lần; phân lân nung chảy 18,1 nghìn tấn, tăng 90,5%; kính nổi 38,0 nghìn tấn, tăng 12,4%; clanke 395,0 nghìn tấn, tăng 61,5%; modul camera 29,0 triệu cái, tăng 29,5%; xe ô tô chở hàng 922 chiếc, tăng 44,1%; điện thương phẩm 195,0 triệu Kwh, tăng 10,9%... Bên cạnh đó cũng có một số sản phẩm có mức sản xuất giảm sút như: đá các loại 0,2 triệu m3, giảm 30,1%; dứa đóng hộp 0,5 nghìn tấn, giảm 37,4%; thức ăn gia súc 1,6 nghìn tấn, giảm 56,6%; nước khoáng không có ga 0,2 triệu lít, giảm 40,5%; quần áo các loại 6,4 triệu cái, giảm 19,4%; giày, dép các loại 3,0 triệu đôi, giảm 23,4%; phân urê 38,4 nghìn tấn, giảm 10,1%; phân NPK 6,7 nghìn tấn, giảm 39,1%; xi măng 0,6 triệu tấn, giảm 13,3%; linh kiện điện tử 7,0 triệu cái, giảm 50,7%; tai nghe điện thoại di động 0,4 triệu cái, giảm 30,0%; kính máy ảnh 0,1 triệu cái, giảm 42,2%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 3,7 nghìn chiếc, giảm 47,0%; cần gạt nước ô tô 1,1 triệu cái, giảm 12,3%; đồ chơi hình con vật 1,0 triệu con, giảm 34,2%; điện sản xuất 49,2 triệu Kwh, giảm 16,0%...

Tính chung quý I năm 2022, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ là: dứa đóng hộp 2,3 nghìn tấn, tăng 33,5%; nước dứa tươi 0,7 triệu lít, tăng 31,7%; hàng thêu 1,4 triệu m2, gấp 2,7 lần; quần áo các loại 22,9 triệu cái, tăng 7,9%; phân lân nung chảy 45,7 nghìn tấn, tăng 87,3%; kính nổi 110,5 nghìn tấn, tăng 12,9%; clanke 0,9 triệu tấn, tăng 10,9%; thép cán 68,6 nghìn tấn, tăng 16,1%; modul camera 89,6 triệu cái, tăng 42,4%; xe ô tô chở hàng 2,8 nghìn chiếc, tăng 54,5%; điện thương phẩm 584,4 triệu Kwh, tăng 5,2%… Tuy nhiên, một số sản phẩm lại có mức sản xuất giảm như: đá các loại 0,7 triệu m3, giảm 16,7%; ngô ngọt đóng hộp 0,4 nghìn tấn, giảm 22,3%; thức ăn gia súc 4,9 nghìn tấn, giảm 33,0%; nước khoảng không có ga 0,6 triệu lít, giảm 28,6%; giày, dép các loại 9,3 triệu đôi, giảm 9,3%; phân urê 114,4 nghìn tấn, giảm 16,7%; phân NPK 17,3 nghìn tấn, giảm 31,6%; xi măng 1,7 triệu tấn, giảm 5,2%; linh kiên điện tử 29,0 triệu cái, giảm 18,1%; tai nghe điện thoại di động 1,3 triệu cái, giảm 57,3%; kính máy ảnh 0,4 triệu cái, giảm 48,2%; xe ô tô 5 chỗ ngồi trở lên 12,0 nghìn chiếc, giảm 31,9%; cần gạt nước ô tô 3,1 triệu cái, giảm 7,9%; đồ chơi hình con vật 3,2 triệu con, giảm 12,2%; điện sản xuất 131,9 triệu Kwh, giảm 19,1%...

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong tháng Ba tăng 8,04% so với tháng trước và tăng 17,88% so với cùng tháng năm trước. Trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho cao so với cùng kỳ năm 2021 như: sản xuất đồ uống tăng 60,82%; sản xuất trang phục tăng 23,06%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 99,01%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 40,98%; sản xuất kim loại tăng 37,4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy tính và sản phẩm quang học tăng 25,52%; sản xuất thiết bị điện tăng 54,0%; sản xuất xe có động cơ gấp 4,5 lần cùng kỳ...

Sản lượng tồn kho một số sản phẩm chủ yếu đến 28/02/2022: giày, dép 1,7 triệu đôi; đạm urê 31,1 nghìn tấn; phân hóa học NPK 36,5 nghìn tấn; phân lân nung chảy 16,6 nghìn tấn; kính nổi 97,4 nghìn tấn; xi măng 77,9 nghìn tấn; thép cán 22,3 nghìn tấn; bản vi mạch điện tử 13,8 triệu chiếc; modul camera 13,9 triệu cái; xe ô tô lắp ráp 1,6 nghìn chiếc…

3. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp    

Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2022 cho thấy: có 27,0% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý I năm nay tốt hơn quý trước; 46,0% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 27,0% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý II so với quý I năm nay, có 60,3% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 20,6% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 19,1% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định.

Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý I năm nay, có 55,6% số doanh nghiệp cho rằng do nhu cầu thị trường trong nước thấp là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 49,2% số doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh hàng hóa trong nước cao; 47,6% số doanh nghiệp cho rằng gặp khó khăn về tài chính; 33,3% số doanh nghiệp cho rằng thiếu nguyên, nhiên vật liệu và nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 28,6% số doanh nghiệp cho rằng không tuyển được lao động theo yêu cầu; 19,1% số doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu cao, 17,5% số doanh nghiệp cho rằng lãi suất vay vốn cao.

4. Vốn đầu tư phát triển

Tổng số vốn đầu tư phát triển tháng Ba năm 2022 toàn tỉnh ước đạt 2.143,2 tỷ đồng, tăng 3,9% so với cùng tháng năm trước. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước đạt 363,9 tỷ đồng, giảm 8,3%; vốn ngoài Nhà nước đạt 1.576,1 tỷ đồng, tăng 2,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 203,2 tỷ đồng, tăng 64,6%.

Tính chung lại, tổng vốn đầu tư phát triển quý I năm 2022 toàn tỉnh ước đạt 6.387,4 tỷ đồng, tăng 7,0% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó: vốn ngân sách Nhà nước đạt 1.137,9 tỷ đồng, tăng 7,9%; vốn ngoài Nhà nước đạt 4.890,1 tỷ đồng, tăng 5,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 359,5 tỷ đồng, tăng 33,5%.

Một số dự án, công trình có khối lượng vốn đầu tư thực hiện lớn trong quý I năm 2022 là:

- Khu vực đầu tư công: dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển qua tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 1) ước đạt 44,5 tỷ đồng; dự án xây dựng Nhà văn hóa trung tâm tỉnh Ninh Bình ước đạt 34,8 tỷ đồng; dự án cải tạo nâng cấp đường ĐT 477 đoạn từ Ngã ba Gián Khẩu đến hết phạm vi khu 50 ha mở rộng KCN Gián Khẩu ước đạt 30,0 tỷ đồng; dự án nâng cấp cải tạo tuyến đường kết nối QL12B với QL10 đoạn Yên Mô - Kim Sơn ước đạt 25,5 tỷ đồng; dự án xây dựng Nhà văn hóa trung tâm huyện Yên Mô ước đạt 18,5 tỷ đồng; dự án cải tạo nâng cấp Trường THPT Yên Mô B đạt chuẩn quốc gia ước đạt 16,5 tỷ đồng; dự án xây dựng Trung tâm Thể dục Thể thao huyện Kim Sơn ước đạt 13,0 tỷ đồng; dự án xây dựng Trung tâm văn hóa cộng đồng huyện Kim Sơn ước đạt 12,2 tỷ đồng…

 - Khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước: dự án xây dựng văn phòng của Công ty Cổ phần Hạ tầng dịch vụ và Hạ tầng ô tô Thành Công ước đạt 114,6 tỷ đồng; dự án xây dựng Nhà máy nước sạch Hoàng Long và mạng lưới đường ống cung cấp nước của Công ty TNHH Đầu tư và Xây dựng Hoàng Dân ước đạt 72,6 tỷ đồng; dự án sửa chữa lớn, nâng cấp hệ thống máy móc dây chuyền sản xuất xi măng của Công ty Cổ phần Vissai Ninh Bình ước đạt 50,0 tỷ đồng; dự án xây dựng, lắp đặt mạng lưới đường ống cung cấp nước sạch của Công ty Cổ phần Cấp thoát nước Ninh Bình ước đạt 45,9 tỷ đồng; dự án xây dựng khu Trung tâm liên hợp du lịch và thể thao sân golf hồ Yên Thắng của Công ty Cổ phần đầu tư PV- Inconess ước đạt 30,0 tỷ đồng…

- Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): dự án đầu tư xây dựng Nhà máy HTMT số 2 phục vụ lắp ráp, sản xuất ô tô của Công ty Cổ phần sản xuất ô tô Hyundai Thành Công Việt Nam ước đạt 54,0 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà xưởng phục vụ sản xuất giày của Công ty TNHH Regis ước đạt 45,6 tỷ đồng; dự án mua sắm tài sản, lắp đặt máy móc thiết bị phục vụ sản xuất camera dule của Công ty TNHH MCNEX Vina ước đạt 43,0 tỷ đồng; dự án xây dựng nhà máy sản xuất ghế ngồi ô tô của Công ty TNHH Deawon Auto Vina ước đạt 31,0 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất linh kiện điện tử của Công ty TNHH Esmo Vina ước đạt 30,0 tỷ đồng; dự án mua sắm máy móc thiết bị phục vụ sản xuất linh kiện tai nghe điện thoại di động của Công ty TNHH Sanico Việt Nam ước đạt 20,0 tỷ đồng…

Các dự án có nguồn vốn ODA: dự án đầu tư xây dựng Âu Kim Đài phục vụ ngăn mặn giữ ngọt và ứng phó với tác động nước biển dâng cho 06 huyện, thành phố khu vực phía Nam tỉnh Ninh Bình ước đạt 50,0 tỷ đồng; dự án sửa chữa nâng cao an toàn đập tỉnh Ninh Bình ước đạt 55,0 tỷ đồng; dự án tăng cường quản lý đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai tỉnh Ninh Bình ước đạt 3,5 tỷ đồng...

Một số dự án được khởi công xây dựng mới trong quý: dự án xây dựng tuyến đường bộ ven biển, đoạn qua tỉnh Ninh Bình (Giai đoạn 1) với tổng mức đầu tư 682,1 tỷ đồng; dự án nâng cấp, cải tạo tuyến đường kết nối QL12B với QL10 đoạn Yên Mô - Kim Sơn tỉnh Ninh Bình với tổng mức đầu tư 202,0 tỷ đồng; dự án nâng cấp, cải tạo, sửa chữa xây dựng Trụ sở HĐND và UBND huyện Nho Quan với tổng mức đầu tư 120,0 tỷ đồng; dự án xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ đấu giá quyền sử dụng đất tại khu dân cư phía sau Trường THPT Yên Khánh A, huyện Yên Khánh với tổng mức đầu tư 67,5 tỷ đồng; dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu khu cơ quan hành chính tại xã Văn Phong và tuyến đường giao thông, hạ tầng kỹ thuật kết nối trung tâm thị trấn Nho Quan với đường tránh quốc lộ 12B với tổng mức đầu tư 60,0 tỷ đồng…

5. Thương mại, dịch vụ và giá cả

5.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh trong tháng ước đạt gần 3.159,6 tỷ đồng, tăng 13,5% so với cùng tháng năm trước. Tất cả các nhóm hàng hóa đều duy trì mức tăng, trong đó một số nhóm đạt mức tăng khá như: lương thực, thực phẩm ước đạt 930,1 tỷ đồng, tăng 13,4%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 341,8 tỷ đồng, tăng 9,7%; vật phẩm văn hóa, giáo dục 50,5 tỷ đồng, tăng 15,2%; gỗ và vật liệu xây dựng 526,7 tỷ đồng, tăng 17,9%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) 156,6 tỷ đồng, tăng 9,9%; xăng, dầu các loại 336,3 tỷ đồng, tăng 22,3%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 71,9 tỷ đồng, tăng 17,2%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 129,1 tỷ đồng, tăng 26,7%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 81,6 tỷ đồng, tăng 13,4%...

 Tính chung trong quý I năm 2022, doanh thu bán lẻ hàng hóa toàn tỉnh ước thực hiện trên 9.542,1 tỷ đồng, tăng 9,4% so với quý I năm 2021. Toàn bộ 12/12 nhóm hàng đều có doanh thu tăng, cụ thể: lương thực, thực phẩm ước đạt 2.827,4  tỷ đồng, tăng 10,5%; hàng may mặc 679,5 tỷ đồng, tăng 0,5%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 1.052,0 tỷ đồng, tăng 4,3%; vật phẩm văn hoá, giáo dục 152,3 tỷ đồng, tăng 7,1%; gỗ và vật liệu xây dựng 1.599,4 tỷ đồng, tăng 11,5%; ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi) 474,3 tỷ đồng, tăng 5,0%; phương tiện đi lại (trừ ô tô con, kể cả phụ tùng) 568,3 tỷ đồng, tăng 5,6%; xăng, dầu các loại 967,4 tỷ đồng, tăng 16,6%; nhiên liệu khác (trừ xăng, dầu) 214,5 tỷ đồng, tăng 11,0%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm 372,7 tỷ đồng, tăng 19,3%; hàng hoá khác 389,0 tỷ đồng, tăng 7,7%; doanh thu dịch vụ sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác 245,5 tỷ đồng, tăng 12,9%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống trong tháng Ba ước đạt trên 419,9 tỷ đồng, tăng 1,1% so với cùng tháng năm trước; doanh thu một số ngành dịch vụ khác ước đạt 252,3 tỷ đồng, tăng 4,9%.

Trong quý I năm nay, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống ước đạt 1.227,1 tỷ đồng, giảm 0,7% so với cùng kỳ (trong đó: doanh thu lưu trú 76,6 tỷ đồng, giảm 21,9%; doanh thu dịch vụ ăn uống 1.150,5 tỷ đồng, tăng 1,1%); doanh thu một số ngành dịch vụ khác 751,7 tỷ đồng, tăng 4,2%.

5.2. Chỉ số giá

Căng thẳng chính trị giữa Nga và Ukraine đã tác động tiêu cực đến nguồn cung toàn cầu đối với các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất như xăng, dầu, khí hóa lỏng, than luyện cốc, thép... khiến cho giá của các mặt hàng này ở thị trường trong nước đồng loạt tăng, giá điện sinh hoạt bình quân tăng cùng với giá dịch vụ giáo dục mầm non tăng là những nguyên chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ chung (CPI) trên địa bàn tỉnh tháng Ba tăng 0,85% so với tháng trước, tăng 2,96% so với tháng 12/2021 và tăng 2,62% so với cùng tháng năm trước. Bình quân quý I năm nay, CPI tăng 1,63% so với quý I năm 2021.

So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng có đến 09 nhóm có chỉ số giá tăng, cụ thể: nhóm giao thông tăng mạnh nhất 4,73% do sau 03 lần điều chỉnh giá trong tháng Ba (02 lần điều chỉnh tăng giá vào các ngày 01/3/2022 và 11/3/2022 và 01 lần điều chỉnh giảm giá vào ngày 21/3/2022), giá xăng đã tăng 13,34%, giá dầu diezel tăng 18,25%, đẩy giá nhóm nhiên liệu tăng 13,1%; tiếp theo nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,78% do giá gas và các loại chất đốt tăng 9,42% theo đà tăng của thế giới (giá gas tăng 9,91%, giá dầu hỏa tăng 18,31%), thêm vào đó giá sắt thép tăng khiến giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 1,89% cùng với giá điện sinh hoạt bình quân tăng 2,95% do các ca F0 trên địa bàn liên tục tăng, người dân phải ở nhà nhiều hơn nên nhu cầu sử dụng điện tăng; nhóm giáo dục tăng 0,66% do giá dịch vụ giáo dục mầm non tăng 3,45% khi một số cơ sở mầm non tư thục trên địa bàn huyện Kim Sơn tăng giá học phí trong tháng làm cho giá dịch vụ giáo dục tăng 0,83%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,35% (lương thực tăng 0,64%; thực phẩm tăng 0,44%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,02%); nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,17%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,13%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,1%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,09% và nhóm may mặc, giày dép và mũ nón tăng nhẹ 0,01%. Hai nhóm còn lại có chỉ số giá giảm so với tháng trước gồm: nhóm thuốc và dịch vụ y tế giảm 0,13%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,05%.

So với tháng 12/2021, có 09/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: nhóm giao thông tăng nhiều nhất 8,04%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,41% (lương thực tăng 3,34%; thực phẩm tăng 6,27%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,02%); nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,07%; nhóm giáo dục tăng 0,88%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,62%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,51%; nhóm may mặc, giày dép và mũ nón và nhóm thuốc và dịch vụ y tế cùng tăng 0,41%;  nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,17%. Hai nhóm có chỉ số giá giảm gồm: nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,14%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,15%.

Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ: Chỉ số giá vàng tháng này tăng 0,59% so với tháng trước, tăng 1,99% so với tháng 12/2021 và tăng 2,06% so với cùng tháng năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Ba năm nay tăng 1,38% so với tháng 02/2022, tăng 0,35% so với tháng 12 năm trước và tăng 1,89% so với cùng tháng năm 2021. Bình quân quý I, chỉ số giá vàng tăng 0,18%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 2,29% so với cùng kỳ năm 2021.

5.3. Xuất, nhập khẩu

Xuất khẩu: Tổng trị giá xuất khẩu tháng Ba năm 2022 ước đạt trên 245,4 triệu USD, giảm 6,1% so với cùng tháng năm trước. Tổng trị giá hàng xuất khẩu trong quý I ước đạt gần 717,7 triệu USD, tăng 11,1% so với quý I năm 2021. Trong đó các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn là: quần áo các loại đạt 93,9 triệu USD; xi măng và clanke đạt 118,5 triệu USD; giày, dép các loại đạt 210,3 triệu USD; camera và linh kiện 191,3 triệu USD; linh kiện điện tử 20,3 triệu USD…

Một số mặt hàng xuất khẩu trong quý I năm nay tăng khá so với cùng kỳ như: dứa, dưa chuột đóng hộp gần 3,7 nghìn tấn, gấp 2,5 lần; nước dứa cô đặc 352 tấn, gấp 2,4 lần; túi nhựa 485 tấn, tăng 27,6%; quần áo các loại 21,1 triệu chiếc, tăng 44,6%; thảm cói 69,8 nghìn m2, gấp 5,6 lần; găng tay các loại 1,3 triệu đôi, tăng 36,1%; giày, dép các loại 19,8 triệu đôi, tăng 59,1%; camera và linh kiện 80,5 triệu sản phẩm, tăng 10,8%; phôi nhôm 5,9 nghìn tấn, tăng 74,9%.... Tuy nhiên một số sản phẩm xuất khẩu lại có mức giảm sút như: hàng thêu ren 20,1 nghìn chiếc, giảm 44,1%; xi măng, clanke 2,8 triệu tấn, giảm 28,6%; kính quang học 293,1 nghìn chiếc, giảm 24,6%; đồ chơi trẻ em gần 2,0 triệu con, giảm 16,4%; phân urê 1,4 nghìn tấn, giảm 97,6%...

Nhập khẩu: Giá trị nhập khẩu trong tháng ước đạt gần 321,9 triệu USD, tăng 37,7% so với tháng Ba năm 2021. Tổng giá trị nhập khẩu quý I năm nay ước đạt gần 920,8 triệu USD, tăng 31,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giá trị các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là: vải may mặc 42,6 triệu USD; phụ liệu sản xuất giày, dép 106,9 triệu USD; linh kiện điện tử 360,4 triệu USD; linh kiện phụ tùng ô tô các loại 296,8 triệu USD...

5.4. Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách: Khối lượng vận chuyển hành khách trong tháng ước thực hiện trên 1,8 triệu lượt khách, tăng 16,5% và luân chuyển gần 95,5 triệu lượt khách.km, tăng 20,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I năm 2022, vận tải hành khách toàn tỉnh ước thực hiện gần 5,4 triệu lượt khách, tăng 10,1% so với quý I năm 2021 và luân chuyển trên 283,0 triệu lượt khách.km, tăng 11,0%. Trong đó, chủ yếu là vận tải đường bộ ước đạt 4,8 triệu lượt khách, tăng 11,7% và 280,7 triệu lượt khách.km, tăng 11,1%; vận tải đường thủy nội địa 0,6 triệu lượt khách, giảm 1,6% và 2,3 triệu lượt khách.km, giảm 4,2%.  

Vận tải hàng hóa: Tháng Ba ước thực hiện trên 4,9 triệu tấn vận chuyển, tăng 17,5% so với tháng 3/2021 và luân chuyển 698,9 triệu tấn.km, tăng 17,8%. Ước tính quý I, khối lượng hàng hoá vận chuyển toàn tỉnh đạt trên 15,2 triệu tấn, tăng 14,3% và luân chuyển trên 2.145,0 triệu tấn.km, tăng 15,4% so với cùng kỳ. Trong đó: vận tải đường bộ ước thực hiện 7,1 triệu tấn, tăng 11,4% và 365,7 triệu tấn.km, tăng 8,6%; vận tải đường thủy nội địa 7,6 triệu tấn, tăng 17,1% và 1.527,0 triệu tấn.km, tăng 17,7%; vận tải đường biển 0,5 triệu tấn, tăng 13,9% và 252,3 triệu tấn.km, tăng 12,2%.

Doanh thu vận tải: Trong tháng Ba ước đạt 639,4 tỷ đồng, tăng 17,9% so với tháng 3/2021. Ước tính trong quý I năm nay, doanh thu vận tải toàn tỉnh đạt 1.912,3 tỷ đồng, tăng 13,4% so với cùng kỳ. Chia theo loại hình vận tải: vận tải hành khách ước thực hiện 242,6 tỷ đồng, tăng 11,1%; vận tải hàng hóa 1.595,5 tỷ đồng, tăng 14,3%; doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải 72,8 tỷ đồng, tăng 2,8%; doanh thu bưu chính, chuyển phát 1,4 tỷ đồng, tăng 28,5%.

5.5. Du lịch

Sau thời gian dài phải tạm ngừng đón khách, các khu, điểm du lịch trên địa bàn tỉnh đã được mở cửa đón khách du lịch ngoại tỉnh từ ngày 01/02/2022 và khách quốc tế từ ngày 15/3/2022, mở ra cơ hội cho ngành du lịch của tỉnh từng bước phục hồi và phát triển trong bối cảnh bình thường mới. Các đơn vị kinh doanh du lịch đã tập trung chuẩn bị tốt nhất cơ sở vật chất, nhân lực, phòng dịch, nâng cao chất lượng dịch vụ sẵn sàng đón khách trở lại. Bên cạnh đó, ngành du lịch của tỉnh đã triển khai xây dựng các sản phẩm mới, tập trung nâng cấp phát triển các sản phẩm du lịch mang lợi thế của địa phương, đặc biệt chú trọng các hoạt động như trải nghiệm tại khu phố cổ Hoa Lư, phố cổ Tràng An... đã tạo được điểm nhấn, thu hút du khách đến với Ninh Bình.

Ước tính số lượt khách đến các điểm tham quan, du lịch trên địa bàn tỉnh trong tháng Ba đạt trên 270,2 nghìn lượt khách, tăng 33,8% so với cùng tháng năm trước, chia ra: khách trong nước ước đạt 268,8 nghìn lượt khách, tăng 35,6%; khách quốc tế 1,4 nghìn lượt khách, giảm 63,5%. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh ước đạt 42,8 nghìn lượt khách, tăng 6,9%; số ngày khách lưu trú ước đạt 56,4 nghìn ngày khách, tăng 11,8%. Doanh thu du lịch trong tháng ước đạt gần 157,2 tỷ đồng, tăng 22,9% so với cùng tháng năm trước.

Tính chung quý I năm nay, số lượt khách đến các điểm thăm quan, du lịch ước đạt gần 654,9 nghìn lượt khách, tăng 8,0% so với quý I năm 2021, chia ra: khách trong nước đạt 652,4 nghìn lượt khách, tăng 9,1%; khách quốc tế đạt 2,5 nghìn lượt khách, giảm 71,1%. Tổng số lượt khách đến các cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh quý I ước đạt gần 104,7 nghìn lượt khách, giảm 17,4%; số ngày khách lưu trú ước đạt 137,5 nghìn ngày khách, giảm 16,7%. Doanh thu du lịch quý I ước đạt gần 382,5 tỷ đồng, giảm 4,7% so với cùng kỳ năm trước.

6. Một số vấn đề xã hội

6.1. Đời sống dân cư

Trong quý I năm 2022, tình hình dịch Covid -19 bùng phát mạnh, số ca lây nhiễm trong cộng đồng tăng nhanh đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, sinh hoạt và hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên với sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát với thực tiễn của các cấp ủy Đảng, Chính quyền, bên cạnh đó các ngành, các địa phương cũng đã chủ động, tập trung thực hiện các giải pháp, chương trình, đề án chính sách về lao động, giải quyết việc làm, trợ giúp xã hội, giảm nghèo..., nhất là các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, người lao động gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid - 19, do đó đời sống nhân dân trên địa bàn tỉnh vẫn giữ ổn định.

Trong quý I đã giải quyết việc làm cho 4.900 lao động, trong đó xuất khẩu lao động là 200 người; tổ chức đào tạo nghề cho 2.658 lao động, trong đó đào tạo dài hạn 1.113 người, đào tạo ngắn hạn 1.545 người.

Thực hiện Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 01/7/2021, Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021, Nghị quyết 126/NQ-CP ngày 08/10/2021 và Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021 về các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Tính đến ngày 10/3/2022, toàn tỉnh đã hỗ trợ cho 23.714 đối tượng, với số tiền là 35.125 triệu đồng, trong đó: hộ kinh doanh cá thể 216 đối tượng, với số tiền là 648 triệu đồng; lao động tự do 8.612 đối tượng, với số tiền là 12.243 triệu đồng; người lao động phải hoãn hợp đồng lao động, ngừng việc, nghỉ việc không hưởng lương là 3.644 đối tượng, với số tiền là 8.116 triệu đồng; hướng dẫn viên du lịch là 103 đối tượng, với số tiền là 382 triệu đồng; người điều trị Covid-19 và người cách ly y tế 11.139 đối tượng, với số tiền 13.736 triệu đồng. Hỗ trợ 05 đơn vị sử dụng lao động vay vốn trả lương ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất kinh doanh với số tiền gần 1.925,3  triệu đồng.

Công tác an sinh xã hội, giảm nghèo luôn được quan tâm thực hiện, trong quý I đã thực hiện hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho trên 534,3 nghìn đối tượng là hộ nghèo, cận nghèo, các đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi, trẻ em dưới 6 tuổi, học sinh, sinh viên và hộ nông lâm ngư có mức sống trung bình; giải quyết cho 1.030 lượt đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội để phát triển sản xuất, với tổng kinh phí là 49,5 tỷ đồng; giải quyết cho 2.300 hộ được vay vốn xây dựng nước sạch và vệ sinh môi trường với tổng kinh phí 45,4 tỷ đồng.

Công tác bảo trợ xã hội và đền ơn đáp nghĩa cũng được thường xuyên quan tâm với tinh thần tương thân, tương ái, động viên kịp thời về vật chất và tinh thần. Trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, để mọi người, mọi nhà đều được vui Tết đón Xuân đầm ấm, các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư đã quan tâm động viên thăm hỏi, tặng quà cho các gia đình chính sách, hộ nghèo, cận nghèo, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các đối tượng bảo trợ xã hội...với tổng số kinh phí 59.679 triệu đồng, tặng cho 159.415 lượt đối tượng. Trong đó: quà của tỉnh 19.623,5 triệu đồng, tặng cho 51.722 lượt đối tượng; quà của huyện, xã 11.871,3 triệu đồng, tặng cho 41.691 lượt đối tượng; nguồn xã hội hóa 19.668,1 triệu đồng, tặng cho 38.214 lượt đối tượng.

6.2. Văn hoá thông tin

Hoạt động Văn hóa - Thông tin trong quý I diễn ra với nhiều nội dung và hình thức phong phú, thiết thực chào mừng kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và chào mừng Xuân mới Nhâm Dần 2022; chào mừng 91 năm thành lập đoàn TNCS Hồ Chí Minh; hướng tới kỷ niệm 200 năm danh xưng Ninh Bình và 30 năm tái lập tỉnh. Các hoạt động văn hoá, thông tin tuyên truyền và cổ động trực quan như: kẻ vẽ, chăng treo khẩu hiệu, tranh cổ động; các cụm cổ động, cổng chào lớn, các bảng điện tử, nhất là ở các trung tâm đô thị, các trục đường giao thông chính; tổ chức cổ động trực quan bằng xe cổ động, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về các quy định an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, tệ nạn xã hội và các biểu hiện thương mại hóa trong hoạt động lễ hội và đặc biệt là tuyên truyền về thực hiện nghiêm các biện pháp phòng chống dịch Covid-19. Bên cạnh đó tổ chức các hoạt động nghệ thuật như triển lãm mỹ thuật và nhiếp ảnh; biểu diễn nghệ thuật; trưng bày bảng ảnh nêu bật những thành tựu kinh tế, văn hóa xã hội của tỉnh.

 Trong quý I, Nhà hát chèo đã thực hiện 31 buổi biểu diễn nghệ thuật và chương trình ca múa nhạc phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ Nhân dân. Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng tỉnh tổ chức đợt chiếu phim kỷ niệm 92 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và mừng Xuân Nhâm Dần 2022, tổ chức chiếu phim miễn phí phục vụ đoàn viên thanh niên nhân dịp kỷ niệm 200 năm danh xưng Ninh Bình, 30 năm tái lập tỉnh và 91 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

6.3. Thể dục thể thao

Trong quý, tiếp tục duy trì đào tạo, huấn luyện nâng cao thành tích cho vận động viên các tuyến tại Trung tâm huấn luyện thể dục thể thao bảo đảm công tác phòng chống dịch Covid-19. Bên cạnh đó, cử các đoàn vận động viên đi thi đấu các giải trong nước, đạt được một số thành tích như: giải Vô địch Kurash quốc gia lần thứ III năm 2021 tại thành phố Hải Phòng đạt 02 HCV, 01 HCB và 01 HCĐ; giải Vô địch Vật cổ điển, Vật tự do quốc gia năm 2021 tại thành phố Hải Phòng đạt 01 HCV, 02 HCB; giải Cờ vua trẻ xuất sắc quốc gia năm 2021 dưới hình thức trực tuyến đạt 01 HCV, 04 HCĐ; giải Vô địch Bowling quốc gia tại thành phố Hà Nội đạt 02 HCV, 03 HCB, 02 HCĐ; giải Vô địch Vật dân tộc toàn quốc lần thứ XXV năm 2021 tại tỉnh Vĩnh Phúc đạt 01 HCV, 03 HCĐ; giải Vô địch cup KickBoxing toàn quốc năm 2022 tại tỉnh Gia Lai đạt 02 HC; cử đoàn vận động viên tham dự giải Vô địch các Câu lạc bộ Vật cổ điển, Vật tự do quốc gia năm 2022 tại Thanh Hóa. Đội Bóng chuyền nam Tràng An Ninh Bình đạt chức vô địch tại giải Bóng chuyền vô địch quốc gia cúp Bamboo Airways năm 2021 và  đội Bóng chuyền nữ Ninh Bình Doveco đạt giải khuyến khích tại giải Bóng chuyền vô địch quốc gia cúp Bamboo Airways năm 2021 tại tỉnh Ninh Bình.

Thể thao quần chúng: nhiều hoạt động thể dục thể thao quần chúng được tổ chức thu hút đông đảo các tầng lớp Nhân dân tham gia như: giải Cờ vua các trường mầm non thành phố Ninh Bình năm 2021; Lễ phát động Tháng hoạt động thể dục, thể thao cho mọi người và Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 2022; giải Việt dã xã, phường, thị trấn tỉnh Ninh Bình lần thứ VI, năm 2022-Cup SHB; các môn thi đấu thể thao trong khuôn khổ Đại hội TDTT tỉnh Ninh Bình lần thứ VII năm 2022. Cùng với đó phối hợp với Bộ Công an tổ chức thành công Giải giao hữu bóng đá chuyên nghiệp - Cúp Hoa Lư năm 2022.

6.4. Hoạt động Y tế

Trước sự bùng phát mạnh của dịch Covid-19, ngành Y tế đã bám sát chỉ đạo của Trung ương và của Tỉnh, chủ động triển khai các biện pháp thích ứng linh hoạt, an toàn, kiểm soát hiệu quả tình hình diễn biến dịch Covid 19, do vậy mặc dù số ca bệnh trong cộng đồng tăng nhanh nhưng ít ca chuyển biến nặng và tử vong. Tính cộng dồn đến ngày 22/03/2022, trên địa bàn toàn tỉnh ghi nhận 86.690 ca dương tính với SARS-CoV-2 (đã điều trị khỏi và xuất viện 73.490 ca, đang điều trị 13.070 ca, chuyển Bệnh viện Nhiệt đới Trung ương 29 ca, tử vong 101 ca, trong đó có 03 ca của tỉnh khác), tổng số trường hợp được cách ly, giám sát cộng dồn là 297.365 trường hợp (trong đó: cách ly tại cơ sở y tế là 25.719 trường hợp; cách ly y tế tại cơ sở cách ly tập trung là 29.141 trường hợp; cách ly y tế tại nhà và nơi lưu trú là 242.505 trường hợp), tổng số mẫu đã lấy xét nghiệm Covid-19 cộng dồn là 723.215 mẫu. Đã tiêm phòng cho đối tượng đủ 18 tuổi trở lên tối thiểu 01 mũi: 663.448 người, tiêm đủ 02 mũi: 655.858 người, tiêm đủ 03 mũi: 643.669 người; tiêm nhắc lại cho đối tượng đã tiêm mũi bổ sung 47.932 người; tiêm cho nhóm đối tượng từ 12 đến dưới 18 tuổi mũi 01: 81.998 người; tiêm đủ 02 mũi: 78.860 người.

Để đảm bảo ATTP trong dịp tết Nguyên đán Nhâm Dần và mùa Lễ hội Xuân 2022 phục vụ nhân dân đón Tết, vui Xuân an toàn, bảo đảm sức khỏe. Ban chỉ đạo liên ngành về ATTP tỉnh đã xây dựng và triển khai kế hoạch công tác bảo đảm ATTP tết Nguyên đán Nhâm Dần và mùa Lễ hội Xuân 2022 trên địa bàn toàn tỉnh.

Trong hai tháng đầu năm nay đã xảy ra 08 ca ngộ độc thực phẩm lẻ tẻ, không có tử vong do ngộ độc thực phẩm; 231 ca mắc tiêu chảy; 12 ca mắc viêm gan virus; 07 ca mắc thủy đậu; 533 ca mắc cúm…

Công tác khám chữa bệnh luôn được quan tâm thực hiện: Tại các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh trong hai tháng đã khám bệnh cho 110 nghìn lượt bệnh nhân; điều trị nội trú cho 15 nghìn lượt bệnh nhân; khám thai 6,2 nghìn lượt; đặt vòng 208 ca, triệt sản 17 ca.

Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong hai tháng, phát hiện mới 04 người nhiễm HIV, có 08 trường hợp tử vong do AIDS. Lũy kế số người nhiễm HIV tính đến nay là 3.153 người.

6.5. Giáo dục, đào tạo

Trong quý I, để đảm bảo an toàn trường học trong tình hình dịch Covid-19, ngành Giáo dục Ninh Bình triển khai các giải pháp đồng bộ với tinh thần chủ động, thích ứng; triển khai kế hoạch dạy học linh hoạt, ứng phó với tình hình dịch Covid-19, tổ chức dạy học trực tuyến kết hợp hướng dẫn tự học tại nhà đối với các trường, lớp phải dừng đến trường đảm bảo chất lượng, tiến độ kế hoạch năm học.

Tổ chức thành công kỳ thi chọn học sinh giỏi, học viên giỏi lớp 12 cấp tỉnh năm học 2021-2022 kết quả: có 653/1.041 thí sinh đoạt giải, đạt tỷ lệ 62,73%, trong đó có 19 giải Nhất, 168 giải Nhì, 297 giải Ba, 169 giải Khuyến khích; tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm 2022 diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế; tổ chức thi thử tốt nghiệp THPT năm học 2021-2022 cho học sinh, học viên lớp 12; tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi lớp 9 THCS cấp tỉnh, kết quả: có 406/693 thí sinh dự thi đạt giải (chiếm 58,59%), gồm 08 giải Nhất, 112 giải Nhì, 129 giải Ba và 157 giải Khuyến khích; tổ chức  khảo sát, đánh giá chất lượng giáo dục về văn hóa năm học 2021-2022 với sự tham gia của 15.935 học sinh, học viên; tổ chức Cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp tỉnh năm học 2021-2022 dành cho học sinh trung học với 104 sản phẩm đăng ký dự thi, kết quả: có 68 dự án đoạt giải gồm 10 giải Nhất, 15 giải Nhì, 26 giải Ba và 17 giải Tư.

Ngoài ra, tham gia cuộc thi vẽ tranh Quốc tế Toyota chủ đề “Chiếc ô tô mơ ước” lần thứ 11, đạt 02 giải Nhì và 03 giải Khuyến khích; tham gia thi đấu môn Karatedo tại Đại hội thể thao tỉnh Ninh Bình, đạt 02 HCV, 01 HCB và 03 HCĐ.

Quỹ Khuyến học, khuyến tài Đinh Bộ Lĩnh tỉnh Ninh Bình tổ chức vinh danh, khích lệ, động viên những học sinh, sinh viên là con em trong tỉnh có thành tích cao trong học tập và các lĩnh vực: thể thao, văn học, nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, công nghệ năm học 2020-2021 cho 119 em học sinh gồm: 33 học sinh đoạt giải kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT, 36 học sinh đạt thủ khoa tuyển sinh vào 10 THPT, 04 học sinh trung học đoạt giải cuộc thi nghiên cứu Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia, 11 học sinh, sinh viên đoạt giải tại các cuộc thi cấp quốc gia, 06 học sinh đoạt giải tại Cuộc thi sáng tạo dành cho thanh, thiếu niên và nhi đồng toàn quốc lần thứ 17, 03 học sinh đoạt giải tại Hội thi tin học trẻ toàn quốc, 26 vận động viên đoạt giải tại các giải đầu cấp quốc gia, quốc tế và 198 học sinh thi đỗ đại học đạt tổng điểm 3 môn thi theo tổ hợp đạt 27,35 điểm trở lên.

6.6. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

Lực lượng công an tỉnh chủ động nắm, kiểm soát tốt tình hình, chỉ đạo giải quyết những vấn đề nổi cộm liên quan đến an ninh trật tự (ANTT), không để xảy ra đột xuất, bất ngờ. Huy động tối đa lực lượng, phương tiện, triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, thực hiện quyết liệt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm, bảo đảm ANTT trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, phục vụ cho Nhân dân vui Xuân, đón Tết an toàn. Đặc biệt, trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, lực lượng công an đã phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng, chủ động nắm chắc tình hình trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới; tăng cường công tác quản lý xuất nhập cảnh, quản lý cư trú của công dân và người nước ngoài trên địa bàn tỉnh.

Tính từ 15/02/2022-14/3/2022, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 04 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 01 người và 02 người bị thương; xảy ra 22 vụ phạm pháp hình sự; phát hiện 06 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 06 đối tượng.

Tính chung lại, từ 15/12/2021 đến 14/3/2022, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 23 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 09 người và 14 người bị thương; xảy ra 73 vụ phạm pháp hình sự; phát hiện 94 vụ buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý với 115 đối tượng. Xảy ra 01 vụ cháy, gây thiệt hại 500 triệu đồng./.


Đánh giá bài viết

lượt đánh giá: , trung bình:

Tin liên quan

Tin khác