Tháng 5 là tháng diễn ra Tuần lễ chuyển đổi số và Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo - Mekong Delta 2023, đây là sự kiện quan trọng của Tỉnh với nhiều hoạt động diễn ra và các gian hàng của các doanh nghiệp chuyển đổi số, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong và ngoài tỉnh tham dự, vì vậy đã tạo điều kiện cho tình hình kinh tế - xã hội của Tỉnh tiếp tục phát triển, các chỉ tiêu kinh tế duy trì ở mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước như: Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 13,91%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 20,06%; doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi tăng 12,45%, xuất nhập khẩu hàng hoá trực tiếp tăng 6,44%,…. Cụ thể kết quả hoạt động của từng ngành, lĩnh vực như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất nông nghiệp trong tháng chủ yếu tập chung vào tuyên truyền và theo dõi diện tích xuống giống vụ Hè thu năm 2023 theo lịch xuống giống và kế hoạch đề ra, nắm bắt tình hình diễn biến sinh vật gây hại trên các loại cây trồng để có biện pháp chỉ đạo quản lý kịp thời, tăng cường theo dõi tình hình khô hạn và xâm nhập mặn để có biện pháp ứng phó hiệu quả, góp phần giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai. Tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, dịch bệnh vẫn đang được kiểm soát. Lâm nghiệp tiếp tục phát triển, sản lượng khai thác tăng. Diện tích nuôi trồng thủy sản tiếp tục được mở rộng, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Kết quả cụ thể từng lĩnh vực như sau:
1.1. Nông nghiệp
1.1.1. Trồng trọt
Lúa Hè thu 2023: Hiện nay đã xuống giống được 70.576,3 ha, đạt 94,73% kế hoạch tỉnh (74.500 ha), diện tích còn lại chưa xuống giống chủ yếu tập trung ở huyện Long Mỹ. Diện tích xuống giống hiện đang giai đoạn mạ đến trỗ chín, phân bố các huyện, thị xã, thành phố. Các giống lúa sử dụng trong vụ Hè thu chủ yếu tập trung các giống: OM18, OM5451, Đài Thơm 8,…
Mía niên vụ 2022-2023: Hiện nay đã xuống giống được 3.285,7 ha, đạt 102,68% kế hoạch tỉnh (3.200 ha) tập trung ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy, giảm 14,48% so với cùng kỳ (bằng 556,5 ha). Nguyên nhân do chuyển đổi sang cây rau màu và cây lâu năm. Trong tháng có 35 ha nhiễm sinh vật gây hại (tương đương so với tháng trước) gồm chuột, rệp sáp và sâu đục thân,... đa số là gây hại nhẹ trên mía giai đoạn vươn lóng, phân bố ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy.
Cây ngô: Diện tích gieo trồng 1.594,5 ha, so cùng kỳ năm trước tăng 18,11% (bằng 244,5 ha); năng suất đạt 62,72 tạ/ha, tăng 2,55% (bằng 1,56 tạ/ha); sản lượng được 7.528,68 tấn, so cùng kỳ năm trước tăng 24,97% (bằng 1.504,45 tấn). Diện tích gieo trồng tăng do thay đổi mùa vụ dẫn đến sản lượng thu hoạch tăng mạnh so với cùng kỳ.
Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng 11.596,63 ha, so với năm trước tăng 8,58% (bằng 916,14 ha). Ước sản lượng được 121.699,01 tấn, tăng 9,12% (bằng 10.173,59 tấn).
Một số cây lâu năm ăn quả chủ yếu của Tỉnh so với cùng kỳ:
- Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 3.114,55 ha, tăng 3,06% (bằng 92,6 ha) so với cùng kỳ, sản lượng 5 tháng ước được 13.183,22 tấn, đạt 28,72% so kế hoạch năm (45.900 tấn) và tăng 7,31% (bằng 898,59 tấn) so với cùng kỳ. Tập trung ở thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ.
- Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.669,84 ha, tăng 4,3% (bằng 68,84 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng 5 tháng ước được 4.175,38 tấn, đạt 23,2% so kế hoạch năm (18.000 tấn) và tăng 5,09% (bằng 202,09 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích cho trái và năng suất thu hoạch tăng khá. Diện tích trồng nhiều ở các huyện Phụng Hiệp (457,91 ha), huyện Long Mỹ (364,71 ha) và thị xã Long Mỹ (315,87 ha).
- Cây mít: Diện tích hiện có 9.938,6 ha, tăng 11,8% (bằng 1.048,6 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 5 tháng được 18.321,98 tấn, đạt 19,09% so kế hoạch năm (96.000 tấn) và tăng 37,89% (bằng 5.034,83 tấn) so với cùng kỳ, do diện tích và năng suất thu hoạch tăng cao. Tập trung nhiều ở các huyện Châu Thành (6.020,29 ha), thành phố Ngã Bảy (1.697,86 ha) và Phụng Hiệp (1.085,53 ha).
- Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 2.788,9 ha, tăng 0,61% (bằng 16,9 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 5 tháng được 4.451,51 tấn, đạt 9,51% so kế hoạch toàn bộ cây chanh năm 2023 (46.800 tấn) và tăng 5,92% (bằng 248,62 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích thu hoạch tăng và năng suất tăng. Tập trung nhiều ở các huyện Phụng Hiệp (1.438,34 ha), Châu Thành A (552,71 ha) và Châu Thành (335,75 ha).
- Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 720,04 ha, tăng 4,32% (bằng 29,84 ha) so với cùng kỳ. Sản lượng ước 5 tháng được 1.182,47 tấn, đạt 12,74% so kế hoạch năm (9.280 tấn) và tăng 7,61% (bằng 83,64 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích và năng suất thu hoạch tăng.
1.1.2. Chăn nuôi
Trong tháng, tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được kiểm soát tốt, lực lượng thú y thường xuyên thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm và tiêm phòng một số bệnh thường gặp trên gia súc, gia cầm như: Dịch tả heo, bệnh lở mồm long móng, dịch tả vịt, … Vì vậy, ước tính tháng 5/2023, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:
- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.287 con, giảm 9,05% (bằng 128 con) so với cùng kỳ. Nguyên nhân chủ yếu là do đa số diện tích đất trồng lúa đều sử dụng cơ giới hóa thay cho sức cày kéo của trâu, môi trường nuôi cũng ngày càng bị thu hẹp. Đàn bò ước được 3.893 con, tăng 5,7% (bằng 210 con) so với cùng kỳ.
- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 144.516 con, tăng 1,21% (bằng 1.725 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 102.578 con, tăng 1,3% (bằng 1.313 con). Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ đã tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Ngành chức năng của tỉnh luôn chỉ đạo chặt chẽ việc tái đàn heo đúng theo thời điểm để phù hợp với tình hình thực tế địa phương cũng như rà soát, xác định những cơ sở chăn nuôi lớn đảm bảo thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và chất lượng.
- Đàn gia cầm: Ước được 4.428,92 ngàn con, tăng 2,61% (bằng 112,85 ngàn con) so với cùng kỳ. Trong đó: đàn gà 1.752,27 ngàn con, tăng 5,51% (bằng 91,45 ngàn con) so cùng kỳ. Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay đã nuôi ổn định.
1.2. Lâm nghiệp
Tình hình chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được thực hiện nghiêm túc, ngành Kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, trang bị đầy đủ các trang thiết bị sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Vì vậy, diện tích rừng được bảo vệ an toàn.
Ước tính tháng 5/2023, diện tích rừng trồng mới tập trung được 112,80 ha, tăng 0,27% so với cùng kỳ; sản lượng gỗ khai thác khoảng 612 m3, giảm 25,37% (bằng 208 m3); sản lượng củi khai thác khoảng 5.218 ste, tăng 1,12% (bằng 58 ste) so với cùng kỳ. Tính chung 5 tháng năm 2023, diện tích rừng trồng mới tập trung được 112,80 ha, tăng 0,27% so với cùng kỳ; số cây lâm nghiệp trồng phân tán được 671,88 ngàn cây, so với cùng kỳ tăng 2,96% (bằng 19,34 ngàn cây); sản lượng gỗ khai thác khoảng 5.003 m3, giảm 2,44% (bằng 125 m3); sản lượng củi khai thác khoảng 47.231 ste, tăng 2,02% (bằng 935 ste) so với cùng kỳ.
1.3. Thủy sản
Ước tính tháng 5/2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh được 1.498,42 ha, tăng 1,83% (bằng 26,89 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng năm 2023, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 3.654,61 ha, đạt 40,16% so kế hoạch năm (9.100 ha) và tăng 1,48% (bằng 53,14 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể: Diện tích nuôi cá được 3.502,1 ha [1], tăng 1,5% (bằng 51,91 ha); diện tích nuôi tôm được 97,20 ha, tăng 0,73% (bằng 0,70 ha) tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ (Nuôi tôm sú); diện tích nuôi thủy sản khác được 55,31 ha, tăng 0,97% (bằng 0,53 ha); Thể tích nuôi lươn được 6.192 m3, tăng 2,67% (bằng 161 m3) so cùng kỳ.
Ước tính tháng 5/2023, tổng sản lượng thủy sản được 2.554,67 tấn, tăng 4,22% (bằng 103,4 tấn) so với cùng kỳ. Tính chung 5 tháng năm 2023, tổng sản lượng thủy sản ước được 26.821,87 tấn, tăng 3,42% [2] (bằng 885,81 tấn) so với cùng kỳ. Cụ thể:
- Sản lượng thủy sản khai thác 5 tháng ước được 1.273,19 tấn, giảm 0,97% (bằng 12,53 tấn) so cùng kỳ. Do nguồn lợi thủy sản khai thác nội địa từ tự nhiên đang có chiều hướng giảm.
- Sản lượng thủy sản nuôi trồng 5 tháng ước được 25.548,68 tấn, tăng 3,64% (bằng 898,34 tấn) so cùng kỳ. Trong đó sản lượng cá thát lát thu hoạch được 434,28 tấn, tăng 3,13% (bằng 13,16 tấn) so cùng kỳ; sản lượng lươn thu hoạch được 213,48 tấn, tăng 4,66% (bằng 9,51 tấn) so với cùng kỳ. Hiện tại, hai sản phẩm này đang được người dân mở rộng diện tích vì đem lại thu nhập tương đối ổn định.
2. Sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện tháng 5/2023:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 3.174,21 tỷ đồng, tăng 4,76% so với tháng trước và tăng 11,30% so với cùng kỳ năm trước.
- Tính theo giá hiện hành, được 5.310,21 tỷ đồng, tăng 6,14% so với tháng trước và tăng 26,36% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng chủ yếu là do Chi nhánh tập đoàn dầu khí Việt Nam, Ban quản lý dự án điện lực dầu khí Sông Hậu 1, dự tính sản lượng điện sản xuất tháng 5/2023 được 566 triệu Kwh, tăng 2,83% so với tháng trước và tăng 303,45% so với cùng kỳ năm trước, đây là tháng có sản lượng điện sản xuất cao nhất từ đầu năm đến nay, nên làm giá trị sản xuất tháng này tăng đột biến so với cùng kỳ năm trước. Ở chiều ngược lại, do ảnh hưởng của thị trường xuất khẩu bị đình trệ, nên một số sản phẩm trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm như: sản lượng tôm đông lạnh giảm 37,78%; sản lượng giày, dép có đế bằng da giảm 17,34%; sản lượng giấy và bìa giấy các loại giảm 5,36%,... Vì vậy, làm giá trị sản xuất tháng 5/2023 so với cùng kỳ năm trước tăng chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của Tỉnh khi nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I vận hành chính thức.
Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện 5 tháng năm 2023:
- Tính theo giá so sánh 2010, được 14.497,63 tỷ đồng, tăng 13,09% so với cùng kỳ năm trước và đạt 37,19% so với kế hoạch năm.
- Tính theo giá hiện hành, được 24.212,89 tỷ đồng, tăng 23,85% so với cùng kỳ năm trước và đạt 37,41% so với kế hoạch năm. Trong đó:
+ Khu vực kinh tế nhà nước, có 2 doanh nghiệp đóng góp giá trị sản xuất 5.887,39 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 24,32% trong toàn ngành và tăng 559,75% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế ngoài nhà nước, có 339 doanh nghiệp, hợp tác xã và trên 4.288 cơ sở cá thể công nghiệp, đóng góp giá trị sản xuất 14.277,95 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 58,97% trong toàn ngành và tăng 3,47% so với cùng kỳ.
+ Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, có 12 doanh nghiệp và đóng góp giá trị sản xuất 4.047,56 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 16,72% trong toàn ngành và giảm 16,68% so với cùng kỳ.
Đối với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Dự tính tháng 5/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 3,23% so với tháng trước và tăng 13,91% so với cùng kỳ. Trong đó:
- Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Tăng 3,28% so với tháng trước và tăng 8,26% so với cùng kỳ. Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thị trường tiêu thụ trong nước đã phục hồi, nên chỉ số sản xuất một số ngành tăng như: Sản xuất mì ống, mì sợi tăng 71,55%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 20,14%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 46,95%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 12,02%,... Ở chiều ngược lại, một số ngành chiếm tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo nhưng do ảnh hưởng của thị trường tiêu thụ giảm so với cùng kỳ như: Chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 18,45%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 16,38%. Vì vậy, Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp hơn mức tăng chung của toàn ngành.
- Ngành sản xuất phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí: Tăng 2,70% so với tháng trước và tăng 248,33% so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do Công ty điện lực Hậu Giang đã cung cấp đủ điện, an toàn phục vụ phát triển kinh tế xã hội, hạn chế tối đa không để tình trạng mất điện, đảm bảo nhu cầu sử dụng cho người dân và các doanh nghiệp được hoạt động liên tục trong các đợt cao điểm nắng nóng như hiện nay. Ngoài ra, tăng một phần là do các tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, chính thức vận hành thương mại và theo nhu cầu thực tế, nên dự tính sản lượng điện sản xuất đạt trên 566 triệu Kwh, tăng 2,83% so với tháng trước và tăng 303,45% so với cùng kỳ năm trước, đây là tháng có sản lượng điện sản xuất cao nhất từ đầu năm đến nay, nên làm sản lượng tăng đột biến so với cùng kỳ năm trước (cùng thời điểm năm trước các tổ máy đang trong thời gian chạy thử nên sản lượng đạt chỉ 140,29 triệu Kwh). Vì vậy, chỉ số sản xuất ngành này tăng đột biến so với cùng kỳ năm trước.
- Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải: Tăng 1,79% so với tháng trước và tăng 5,79% so với cùng kỳ. Hiện nay nhu cầu sử dụng nước sạch trong sinh hoạt của người dân nông thôn ngày càng cao, nên Công ty TNHH Một Thành Viên Cấp Nước Hậu Giang và Công ty CP cấp nước và VSMT Nông Thôn Hậu Giang, đã có kế hoạch chủ động xử lý, hoạt động liên tục, khai thác thêm các nguồn nước ngầm để đảm bảo cung cấp đầy đủ nước phục vụ tốt việc sản xuất kinh doanh và sinh hoạt cho mọi người dân, sản lượng sản xuất nước sạch sinh hoạt ước tháng 5/2023 được 2.208,58 ngàn M3 tăng 10,62% so với cùng kỳ năm trước.
Dự tính 5 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 13,92% so với cùng kỳ. Trong đó, Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong toàn ngành công nghiệp, tăng 8,34% so với cùng kỳ[3]; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 270,92% so với cùng kỳ; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 13,92% so với cùng kỳ.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực của tỉnh 5 tháng đầu năm 2023 so với cùng kỳ như sau:
- Sản lượng nước mắm sản xuất được 43.031 nghìn lít, tăng 1.483,77% so với cùng kỳ năm trước, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 710,87 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 10,12% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 2,94% trong toàn ngành và sản lượng mỳ, phở, miến, bún, cháo ăn liền được 6.398 tấn, tăng 16,75% so với cùng kỳ năm trước, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 270,44 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,85% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 1,12% trong toàn ngành, đây cũng là 2 sản phẩm chủ lực của Công ty TNHH MTV Masan HG. Ngoài ra, đến thời điểm hiện tại doanh nghiệp mới đầu tư hoàn thành và đưa vào hoạt động dây chuyền sản xuất sữa, với sản lượng dự tính được 1,12 triệu lít/tháng, lượng hàng hóa doanh nghiệp sản xuất ra được phân phối trực tiếp đến các hệ thống siêu thị trong vùng, nên thị trường của doanh nghiệp hết sức ổn định và có khả năng tăng trưởng cao hơn nữa trong những tháng tiếp theo.
- Sản lượng sản xuất thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, được 160.079 tấn, tăng 15,97% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 1.980,18 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 28,19% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 8,18% trong toàn ngành. Nguyên nhân là do tình hình chăn nuôi của bà con đang diễn ra hết sức thuận lợi (dịch bệnh đang được kiểm soát tốt), nên Công ty Thức Ăn Chăn Nuôi Rico Hậu Giang; Công ty TNHH Thanh Khôi; Công ty TNHH MNS Feed Hậu Giang tăng sản lượng sản xuất trong những tháng vừa qua, để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi của các hộ nông dân trong tỉnh nói riêng và trong khu vực nói chung.
- Sản lượng điện sản xuất được 2.434 triệu Kwh, tăng 346,43% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 5.766,90 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 95,55% trong ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hoà không khí và chiếm tỷ trọng 23,82% trong toàn ngành.
Nguyên nhân là do sau thời gian vận hành chính thức nhà máy nhiệt điện Sông Hậu I, đã hoạt động ổn định và sản lượng điện sản xuất 5 tháng đầu năm tăng đột biến so với cùng kỳ. Vì vậy, đã làm tăng đột biến ngành này so với cùng kỳ năm trước.
Ở chiều ngược lại do ảnh hưởng của giá nguyện, vật liệu đầu vào tăng, cũng như thị trường xuất khẩu đang gặp khó khăn, nên một số sản phẩm công nghiệp sản xuất chủ yếu phục vụ thị trường xuất khẩu giảm sản lượng sản xuất như: Sản lượng sản xuất tôm đông lạnh được 9.429 tấn, giảm 37,80% so với cùng kỳ năm trước, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 2.658,85 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 37,85% trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và chiếm tỷ trọng 10,98% trong toàn ngành; sản lượng sản xuất nước uống có vị hoa quả được 87,04 triệu lít, giảm 0,47% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 1.202,92 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 55,23% trong ngành sản xuất đồ uống và chiếm tỷ trọng 4,97% trong toàn ngành; sản lượng sản xuất giày dép các loại được 6.037 ngàn đôi, giảm 15,25% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 1.502,95 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 80,99% trong ngành sản xuất giày dép các loại và chiếm tỷ trọng 6,21% trong toàn ngành; sản lượng sản xuất giấy và bìa khác được 185.432 tấn, giảm 2,27% so với cùng kỳ, tạo ra giá trị sản xuất (theo giá hiện hành) được 2.210,35 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 96,75% trong ngành sản xuất giấy và chiếm tỷ trọng 9,13% trong toàn ngành.
3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
Trong tháng, toàn tỉnh có 66 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tổng số vốn đăng ký là 221 tỷ đồng (so với cùng kỳ bằng 85,71% về số doanh nghiệp và bằng 31,3% về số vốn doanh nghiệp); trong tháng không có doanh nghiệp đăng ký giải thể và tạm ngừng hoạt động.
Lũy kế từ đầu năm đến nay có 330 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tổng vốn là 1.129 tỷ đồng (so cùng kỳ bằng 80,1% về số doanh nghiệp và bằng 40,92% về số vốn doanh nghiệp.); có 21 doanh nghiệp đăng ký giải thể, tổng vốn là 28,80 tỷ đồng (so cùng kỳ giảm 67% về số doanh nghiệp, giảm 73,44% về vốn); có 106 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tổng vốn là 122,80 tỷ đồng (so với cùng kỳ giảm 23,19% về số doanh nghiệp và giảm 84,88% về số vốn doanh nghiệp).
4. Vốn đầu tư
Tính đến ngày 15/5/2023, Kế hoạch vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2023 là 22.482,73 tỷ đồng, bao gồm các nguồn như sau:
- Vốn ngân sách nhà nước: 5.022,23 tỷ đồng.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn 2.150,50 tỷ đồng.
- Các nguồn vốn khác như: Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước là: 15.310 tỷ đồng.
Ước tính tháng 5/2023, vốn đầu tư thực hiện được 1.894,57 tỷ đồng, bằng 101,43% so với tháng trước và bằng 107,29% so với cùng kỳ năm trước.
Ước thực hiện 5 tháng năm 2023, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 8.813,27 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 109,03%[4] và đạt 39,20% so với kế hoạch năm. Chia ra:
- Vốn ngân sách nhà nước thực hiện được 1.677 tỷ đồng, bằng 175,35% so với cùng kỳ năm trước và đạt 33,39% so với kế hoạch năm.
- Vốn tự có của doanh nghiệp nhà nước và Trung ương đầu tư trên địa bàn thực hiện được 961,11 tỷ đồng, bằng 245,78% so với cùng kỳ năm trước và đạt 44,69% so với kế hoạch năm.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước có khối lượng thực hiện được 6.175,16 tỷ đồng, bằng 91,68% so với cùng kỳ năm trước và đạt 40,33% so với kế hoạch năm.
Trong thời gian tới, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 theo mục tiêu đề ra, các Chủ đầu tư cần thực hiện một số giải pháp:
- Xác định việc đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm; thường xuyên rà soát, đôn đốc, kịp thời phát hiện và tháo gỡ các khó khăn vướng mắc phát sinh của từng dự án, nhất là các dự án trọng điểm.
- Chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất để hoàn thành thủ tục đầu tư, tập trung làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị thực hiện dự án, nâng cao tính sẵn sàng và tính khả thi để giải ngân vốn của dự án được giao kế hoạch năm 2023.
- Chủ động rà soát, đề xuất cấp có thẩm quyền điều chuyển kế hoạch vốn năm 2023 của các dự án chậm tiến độ sang các dự án khác có tỷ lệ giải ngân cao và có nhu cầu bổ sung vốn.
- Phối hợp với Trung tâm Phát triển Quỹ đất các cấp và các đơn vị có liên quan khẩn trương giải quyết kiến nghị của người dân bị ảnh hưởng để bàn giao mặt bằng, đảm bảo tiến độ thi công theo quy định.
- Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các nhà thầu vi phạm tiến độ xây dựng, chất lượng công trình, vi phạm các điều khoản hợp đồng đã ký kết; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ thi công dự án.
- Rà soát kỹ ngay từ khâu chuẩn bị dự án, công tác thiết kế, đấu thầu, thi công, thủ tục thanh, quyết toán … đối với từng dự án. Tập trung đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng, tháo gỡ vướng mắc phát sinh, lập hồ sơ thanh toán ngay khi có khối lượng.
5. Tài chính, tín dụng
5.1. Tài chính
Ước tổng thu ngân sách nhà nước tháng 5/2023 được 859,12 tỷ đồng, luỹ kế được 7.759,56 tỷ đồng, đạt 72,51% dự toán Trung ương, đạt 70,02% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn được 505,50 tỷ đồng, luỹ kế được 2.532,99 tỷ đồng, đạt 41,07% dự toán Trung ương, đạt 38,86% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao, bao gồm:
+ Thu nội địa: 450 tỷ đồng, luỹ kế được 2.297,47 tỷ đồng, đạt 41,77% dự toán Trung ương và đạt 39,27% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
+ Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 55,50 tỷ đồng, luỹ kế được 235,53 tỷ đồng, đạt 35,26% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Trung ương trợ cấp được 353,62 tỷ đồng, luỹ kế được 2.244,13 tỷ đồng, đạt 49,50% dự toán Trung ương và Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
Ước tổng chi ngân sách địa phương tháng 5/2023 được 810,29 tỷ đồng, luỹ kế được 4.993,69 tỷ đồng, đạt 52,30% dự toán Trung ương giao, đạt 50,36% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Trong đó:
- Chi xây dựng cơ bản: 419,54 tỷ đồng, luỹ kế được 3.247,16 tỷ đồng, đạt 68,30% dự toán Trung ương giao, đạt 64,50% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
- Chi thường xuyên: 390,74 tỷ đồng, luỹ kế được 1.745,53 tỷ đồng, đạt 37,47% dự toán Trung ương giao, đạt 37,23% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao.
5.2. Tín dụng ngân hàng
Đến ngày 30/4/2023, tổng vốn huy động toàn địa bàn là 20.911 tỷ đồng, tăng trưởng 4,83% so với cuối năm 2022. Vốn huy động đáp ứng được 56,56% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 10.316 tỷ đồng (chiếm 49,33%), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 10.595 tỷ đồng (chiếm 50,67%). Hiện, lãi suất không kỳ hạn đến dưới 1 tháng phổ biến từ 0,1-0,5%/năm; lãi suất từ 01 tháng đến dưới 06 tháng phổ biến từ mức 4,5-5,5%/năm; lãi suất từ 06 tháng đến dưới 12 tháng phổ biến từ 6,0-7,4%/năm; lãi suất từ 12 tháng trở lên phổ biến từ 6,4-8,2%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 5/2023, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 21.018 tỷ đồng, tăng trưởng 5,36% so với cuối năm 2022.
Đến ngày 30/4/2023, tổng dư nợ cho vay toàn địa bàn là 36.972 tỷ đồng, tăng trưởng 5,80% so với cuối năm 2022. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn là 19.502 tỷ đồng (chiếm 52,75%); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 17.470 tỷ đồng (chiếm 47,25%). Đến thời điểm hiện nay, lãi suất cho vay luôn được giữ ở mức ổn định, đối với các lĩnh vực ưu tiên lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam ở mức 4,5%/năm; các lĩnh vực khác lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến từ 9,0 - 12,5%/năm; trung, dài hạn từ 11,5 - 16%/năm. Ước thực hiện đến cuối tháng 5/2023, dư nợ đạt 37.131 tỷ đồng, tăng trưởng 6,25% so với cuối năm 2022.
Nợ quá hạn đến cuối tháng 4/2023 là 1.085 tỷ đồng, chiếm 2,94%/tổng dư nợ; nợ xấu là 425 tỷ đồng, chiếm 1,15%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 660 tỷ đồng, chiếm 60,83%/tổng nợ quá hạn. Ước thực hiện đến cuối tháng 5/2023, nợ xấu toàn địa bàn vẫn được kiểm soát ở mức an toàn theo mục tiêu đề ra.
6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
6.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Ước tính tháng 5/2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành hiện được 4.855,26 tỷ đồng, so với tháng trước tiếp tục có đà tăng trưởng ổn định nhưng với tốc độ không cao, tuy nhiên so với cùng kỳ năm trước tăng rất cao, tăng 20,06%. Nguyên nhân do trong tháng thị trường kinh doanh các nhóm hàng bán buôn, bán lẻ có sự biến động theo chiều hướng tốt, nhu cầu tiêu dùng của người dân trong kỳ nghĩ lễ dài ngày đầu tháng tăng làm tổng doanh thu bán lẻ hàng hoá có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ ở mức 21,99%. Ngoài ra, các nhóm ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 26,15% cũng đã góp phần đáng kể làm tăng trưởng tốc độ chung. Cụ thể như sau:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 3.748,94 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 2,65% và so với cùng kỳ tăng 21,99%. Hầu hết các nhóm ngành hàng bán lẻ trong tháng đều có sự tăng trưởng so với tháng trước. Riêng giá trị doanh thu nhóm hàng phương tiện đi lại giảm 1,40% do sức mua tiêu dùng cũng như nhu cầu cần mua sắm của người dân giảm dù các cửa hàng kinh doanh đã đưa ra nhiều chương trình khuyến mãi giảm giá, hỗ trợ phương thức thanh toán trả chậm, trả góp. Các nhóm hàng còn lại trong đó nhóm ngành lương thực thực phẩm, đồ dùng trang thiết bị gia đình là những nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn và có mức tăng nhiều nhất lần lượt ở mức 3,24% và 3,98% đã đóng góp chủ yếu vào mức tăng chung của doanh thu bán lẻ.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành thực hiện được 530,73 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 1,15% và so với cùng kỳ năm trước tăng 26,15%. Trong đó: Ngành lưu trú ước tính được 19,76 tỷ đồng, so tháng trước tăng 1,67% và so với cùng kỳ tăng 54,83%; Ngành ăn uống ước tính được 510,97 tỷ đồng, so tháng trước tăng 1,13% và so cùng kỳ năm trước tăng 25,26%.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành) thực hiện được 575,59 tỷ đồng, so với tháng trước giảm 15,03% và so với cùng kỳ năm trước tăng 4,61%. Nguyên nhân giảm so với tháng trước là do doanh thu xổ số kiến thiết giảm (kỳ mở thưởng ít hơn tháng trước 1 kỳ), đồng thời các nhóm ngành dịch vụ còn lại hầu hết đều có mức giảm nhẹ so với tháng trước. Riêng các hoạt động dịch vụ phục vụ cá nhân và gia đình (sửa quần áo, làm đẹp, karaoke,….) có mức tăng nhẹ 4,47%.
Ước thực hiện 5 tháng năm 2023, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước thực hiện được 23.325,65 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 113,30%. Cơ cấu các nhóm ngành đóng góp vào sự tăng trưởng chung của thương mại và dịch vụ vẫn ổn định. Cụ thể:
- Doanh thu bán lẻ hàng hóa được 17.783,24 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 112,35%. Trong đó, các nhóm hàng lương thực, may mặc, nguyên nhiên liệu, đá quý vàng bạc và nhóm hàng hóa khác đều có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước ở mức lần lượt 39,37%, 8,48%, 43,30%, 25,05% và 23,70%. Vì vậy, đã làm tốc độ tăng chung tăng ở mức cao.
- Doanh thu ngành lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 2.576,68 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 19,77%. Trong đó: Ngành lưu trú, ước tính được 91,45 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 49,70%; Ngành ăn uống, ước tính được 2.485,23 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 18,89%.
- Doanh thu các ngành dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành) được 2.965,73 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 13,73%. Tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ đạt được chủ yếu là do giá trị doanh thu ngành dịch vụ vui chơi, giải trí (ngành R) đóng góp, tính đến hết tháng 5 tổng giá trị doanh thu thực hiện được 1.636,62 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng hơn 55% toàn ngành dịch vụ), các ngành khác hầu hết đều có mức tăng cao trên dưới 13%.
6.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Ước thực hiện tháng 5/2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 107,87 triệu USD, so với tháng trước bằng 122,98% và so với cùng kỳ năm trước bằng 106,44%.Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 62,95 triệu USD, so với tháng trước bằng 112,63% và so với cùng kỳ năm trước bằng 84,98%. Giá trị xuất khẩu của nhóm hàng thủy hải sản ước tính sẽ tăng 23,76%, giày dép các loại tăng 24,45%, hàng hóa khác tăng 8,05% so với tháng trước.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 44,92 triệu USD, so với tháng trước bằng 141,17% và so với cùng kỳ năm trước bằng 164,77%. Nhập khẩu ước tính tăng mạnh là do nhóm hàng xăng dầu ước tính nhập khẩu tăng 45,88% so với tháng trước.
Ước thực hiện 5 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 455,32 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 100,30% và so với kế hoạch năm đạt 39,93%. Chia ra:
- Xuất khẩu ước thực hiện được 265,09 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 99,38% và so với kế hoạch năm đạt 35,97%.
- Nhập khẩu ước thực hiện được 173,80 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 102,88% và so với kế hoạch năm đạt 48,24%.
- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 0,10 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 19,62% và so với kế hoạch năm đạt 11,20%.
- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 16,33 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 91,93% và so với kế hoạch năm đạt 38,76%.
6.3. Vận tải hành khách và hàng hóa
Trong tháng 5/2023, hoạt động kinh doanh vận tải của các cơ sở vẫn giữ được sự ổn định, giá trị doanh thu tạo ra tiếp tục tăng nhưng ở mức không cao. Doanh thu vận tải chủ yếu được đóng góp từ hoạt động vận tải đường bộ và các loại hình dịch vụ hỗ trợ vận tải và logictis. Hoạt động đường thủy đang có xu hướng chững lại và không tạo ra được nhiều giá trị đột biến.
Ước tính tháng 5/2023, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện được 133,45 tỷ đồng, so với tháng trước ổn định, tốc độ tăng không cao và so với cùng kỳ năm trước tăng 12,45%. Nguyên nhân tăng cao cùng kỳ do cùng thời điểm tháng 5/2022 hoạt động vận chuyển chưa hồi phục hoàn toàn sau ảnh hưởng dịch bệnh. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 67,49 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 100,40% và so với cùng kỳ năm trước bằng 121,50%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 31,40 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 102,27% và so với cùng kỳ năm trước bằng 112,66%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện được 34,56 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 97,94% và so với cùng kỳ năm trước bằng 98,01%.
Ước tính 5 tháng năm 2023, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện được 659,25 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 119,35%. Trong đó:
- Doanh thu đường bộ thực hiện được 347,63 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 139,26%.
- Doanh thu đường thủy thực hiện được 155,16 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 121,99%.
- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 156,46 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 89,13%.
6.3.1. Vận chuyển - luân chuyển hàng hóa
Ước thực hiện tháng 5/2023, toàn tỉnh vận chuyển được 505,28 nghìn tấn hàng hóa các loại (86.106,91 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 101,21% (101,13%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 141,31% (200,23%). Trong đó:
- Đường bộ thực hiện được 114,62 nghìn tấn (18.716,88 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 99,48% (99,56%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 99,26% (167,25%).
- Đường sông thực hiện được 390,67 nghìn tấn (67.390,03 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 101,73% (101,57%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 161,36% (211,83%).
Ước thực hiện 5 tháng năm 2023, toàn tỉnh vận chuyển được 2.493,38 nghìn tấn hàng hóa các loại (394.752,61 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 139,68% (193,33%). Chia ra:
- Đường bộ thực hiện được 584,18 nghìn tấn (93.841,99 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 93,69% (183,91%).
- Đường sông thực hiện được 1.909,20 nghìn tấn (300.910,62 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 164,37% (196,47%).
6.3.2. Vận chuyển - luân chuyển hành khách
Ước thực hiện tháng 5/2023, toàn tỉnh thực hiện được 2.439,68 nghìn lượt hành khách (45.542,09 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 102,17% (101,72%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 121,61% (85,94%). Trong đó:
- Đường bộ vận chuyển được 188,80 nghìn lượt hành khách (38.792,81 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 101,76% (101,53%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 87,39% (84,44%).
- Đường sông vận chuyển được 2.250,88 nghìn lượt hành khách (6.749,28 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 102,20% (102,81%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 125,74% (95,69%).
Ước thực hiện 5 tháng năm 2023, toàn tỉnh thực hiện được 12.527,92 nghìn lượt hành khách (234.835,85 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 128,80% (93,79%). Chia ra:
- Đường bộ vận chuyển được 956,90 nghìn lượt hành khách (200.320,44 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 92,84% (91,36%).
- Đường sông vận chuyển được 11.571,01 nghìn lượt hành khách (34.515,40 nghìn HK.km), so với cùng kỳ năm trước bằng 133,06% (110,92%).
7. Một số tình hình xã hội
7.1. Giáo dục
Toàn ngành có 317 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, trong đó mầm non, mẫu giáo có 83 trường; tiểu học có 149 trường, (trong đó có 01 Trường Dạy trẻ khuyết tật); trung học cơ sở có 62 trường, trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT Him Lam) và 23 trường trung học phổ thông (trong đó có 01 trường Phổ thông DTNT tỉnh). Giáo dục thường xuyên: có 01 Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh; 07 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên huyện, thị xã, thành phố và 75 Trung tâm Học tập cộng đồng.
Trong tháng, toàn ngành tập trung chủ yếu vào các hoạt động chuyên môn sau:
- Chỉ đạo ôn tập và kiểm tra và chấm thi học kỳ II, năm học 2022 - 2023.
- Hướng dẫn các đơn vị sơ kết 02 năm triển khai thực hiện Chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn 2021-2025.
- Hướng dẫn các đơn vị tổ chức ngày hội “Chắp cánh ước mơ” cho học sinh hoàn thành chương trình tiểu học năm học 2022-2023.
- Trình UBND tỉnh thành lập Hội đồng thẩm định tài liệu giáo dục địa phương lớp 4; trình phê duyệt danh mục sách giáo khoa lớp 4, lớp 8 và lớp 11 sử dụng trong cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Hậu Giang, từ năm học 2023-2024.
- Kiểm tra hồ sơ, thành lập Hội đồng ra đề thi thử kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023.
- Hướng dẫn tổng kết năm học; xây dựng kế hoạch bồi dưỡng hè 2023 các cấp học.
7.2. Văn hóa, thể thao
Toàn hệ thống thực hiện công tác tuyên truyền cổ động trực quan chào mừng kỷ niệm 48 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2023); 137 năm ngày Quốc tế Lao động 01/5 và kỷ niệm 50 năm Chiến thắng 75 lượt tiểu đoàn địch; tuyên truyền bầu cử Trưởng ấp, khu vực nhiệm kỳ 2023 – 2025 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang,… Kết quả: in và lắp mới 3.834m2 pano trên các tuyến đường chính, 4.030 cờ các loại và 205 băng rol. Các Đội tuyên truyền lưu động xây dựng chương trình văn nghệ quần chúng phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương, với 103 buổi, phục vụ 62.830 lượt người xem, tổ chức 86 lượt phóng thanh cổ động.
Hoạt động thư viện: Tổ chức triển lãm sách hưởng ứng “Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam” 19/4 năm 2023 với trên 1.000 quyển sách về văn hóa các dân tộc Việt Nam, sách viết về Hậu Giang, sách mới các lĩnh vực… Triển lãm 70 quyển sách online chào mừng kỷ niệm 48 năm ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2023 và kỷ niệm 50 năm Chiến thắng 75 lượt Tiểu đoàn địch. Tổ chức hoạt động hưởng ứng Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam năm 2023, lồng ghép Lễ Tổng kết Cuộc thi Đại sứ Văn hóa đọc (2019 - 2022), thu hút 4.500 lượt người tham gia, đọc sách với nhiều hoạt động.
Hoạt động Bảo tàng: Tổ chức triển lãm 08 cuộc phục vụ Hội nghị tổng kết phong trào thi đua yêu nước năm 2022; họp mặt kỷ niệm 48 năm Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước;… với các chuyên đề: Thành tựu chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Quốc phòng An ninh tỉnh Hậu Giang năm 2022; Bản đồ và tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam – Những bằng chứng lịch sử và pháp lý”… Tiếp tục thực hiện đăng Video 09 Di tích: Chiến thắng Chương Thiện thành phố Vị Thanh, Chiến thắng Chương Thiện - Long Mỹ, Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu, Tiểu đoàn Tây Đô, Căn cứ Tỉnh ủy Cần Thơ, Đền thờ Bác Hồ, Chiến thắng Cái Sình, Chiến thắng Tầm Vu, Ủy ban Liên hiệp Đình chiến nam Bộ để truyền tải nội dung, hình ảnh các di tích trên kênh Youtube nhằm giới thiệu, quảng bá về di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn tỉnh Hậu Giang đến với mọi người. Khách đến xem triển lãm và tham quan các di tích, xem trên kênh Youtube Bảo tàng, nhà truyền thống huyện, phòng truyền thống các xã văn hóa đạt 16.425 lượt người.
Lĩnh vực thể dục thể thao: Tham gia 07 giải toàn quốc, đạt 04 Huy chương Vàng (HCV), 04 Huy chương Bạc (HCB), 08 Huy chương Đồng (HCĐ): Giải Vovinam vô địch các Câu lạc bộ quốc gia tại Bình Dương (đạt 02 HCV, 02 HCB, 02 HCĐ); giải vô địch Bóng rổ U23 quốc gia năm 2023 tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (đạt 01 HCV, 02 HCĐ); giải Bi sắt vô địch quốc gia tại Bà Rịa Vũng Tàu (đạt 02 HCĐ); giải Đua thuyền Canoeing vô địch các Câu lạc bộ quốc gia tại Đà Nẵng (đạt 01 HCĐ); giải Bóng chuyền vòng bảng hạng A toàn quốc tại Thái Nguyên (kết quả giành quyền thi đấu vòng chung kết); giải Bắn cung vô địch Cung thủ xuất sắc quốc gia tại Vũng Tàu (đạt 02 HCB, 01 HCĐ); giải vô địch Boxing các đội mạnh toàn quốc năm 2023 tại Đắk Lắk (đạt 01 HCV). Có 02 huấn luyện viên và 07 vận động viên được triệu tập vào Đoàn thể thao Việt Nam tham dự SEA Games 32 tại Campuchia. Kết quả đạt: 04 HCB, 02 HCĐ (Cụ thể: 01 HCB đơn nữ môn Bi sắt, 01 HCB nội dung đồng đội môn Vovinam, 01 HCB môn Điền kinh, 01 HCB và 01 HCĐ Ba môn phối hợp, 01 HCĐ môn Kickboxing).
7.3. Lao động và an sinh xã hội
Trong tháng, tạo và giải quyết việc làm mới cho 2.890(8.528)/15.000 lao động, đạt 56,85% kế hoạch năm. Trong đó, đã hỗ trợ đưa 80(258)/547 lao động đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài theo hợp đồng, đạt 47,17% kế hoạch năm (trong đó có 101 lao động đi làm việc thời vụ tại Hàn Quốc). Tổ chức cấp phát chi phí ban đầu không hoàn lại cho người lao động có con, em đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài cho 19 (110) người, với số tiền 150(937,5) triệu đồng.
Lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp: Từ đầu năm đến nay, tuyển sinh học nghề được 538(2.850)/6.500 người, đạt 43,85% kế hoạch năm. Trong đó: trình độ cao đẳng 20(40) người; trung cấp 34(34), sơ cấp và dưới 3 tháng là 484(2.492) người.
Lĩnh vực người có công với cách mạng: Tiếp nhận mới 202(1.025) hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 204(974) hồ sơ. Trong đó, đạt 189(917) hồ sơ, không đạt 15(57) hồ sơ. Còn 61 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết. Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Hậu Giang xem xét, hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở cho hộ nghèo có thành viên là người có công với cách mạng cho 44 trường hợp (xây mới 06 trường hợp, sửa chữa 38 trường hợp) với số tiền 1.500 triệu đồng; Kiểm toán Nhà nước khu vực V hỗ trợ 03 căn nhà tình nghĩa cho đối tượng người có công đang khó khăn về nhà ở trên địa bàn tỉnh.
Công tác bảo trợ xã hội: Toàn tỉnh đã thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 38.136(189.673 lượt) đối tượng bảo trợ xã hội, với số tiền 21.129,66(102.189,8) triệu đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 237(937) trường hợp với số tiền 1.706,4 (6.746,4) triệu đồng; trợ giúp khẩn cấp cho 01(16) trường hợp với số tiền 18(292) triệu đồng. Tổ chức thăm, tặng quà cho 357 người khuyết tật nhân kỷ niệm Ngày người khuyết tật Việt Nam (18/4/2023) với số tiền trên 122,8 triệu đồng.
Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội: Tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nội bộ và ra dân được 40(172) cuộc với 1.574(6.043) lượt người tham dự. Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống tệ nạn xã hội qua hình thức phát thanh được 32(127) cuộc với 249(965) phút tuyên truyền. Tổng số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý trên địa bàn tỉnh tại thời điểm báo cáo là 1.188 người; số người nghiện đang có mặt tại cơ sở cai nghiện là 111 người.
7.4. Y tế
Trong tháng, có 72 ca mắc mới bệnh sốt xuất huyết, giảm 39 ca so với tháng trước, cộng dồn là 467 ca, tăng 458 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 84 ca mắc mới, tăng 57 ca so với tháng trước, cộng dồn là 200 ca, tăng 190 ca so với cùng kỳ; bệnh sởi, bệnh dịch lạ, bệnh viêm gan do vi rút, quai bị và các bệnh truyền nhiễm khác chưa ghi nhận ca mắc.
Chương trình tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch đầy đủ trong tháng là 946 trẻ, cộng dồn là 4.742 trẻ, đạt 45%; Tiêm sởi mũi 2 trong tháng là 906 trẻ, cộng dồn là 4.723 trẻ, đạt 42,2%; Tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) trong tháng là 818 thai phụ, cộng dồn là 3.346 thai phụ, đạt 31,7%.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới phát hiện trong tháng 11 ca, cộng dồn là 28 ca (tăng 23 ca so với cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.967 ca; số bệnh nhân AIDS phát hiện trong tháng 00 ca, cộng dồn: 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 1.048 ca; Số bệnh nhân tử vong do AIDS trong tháng 00 ca, cộng dồn là 00 ca (tương đương cùng kỳ), lũy kế từ 2004 đến nay là 615 ca. Số người hiện đang điều trị Methadone là 62 người, tổng số bệnh nhân quản lý điều trị ARV là 1.005 người.
Kết quả thực hiện khám chữa bệnh đến tháng 5/2023: Tổng số lần khám là 120.104 lượt, cộng dồn là 639.298 lượt, đạt 46,49% kế hoạch, tăng 45,72% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 9.882 lượt, cộng dồn là 46.819 lượt, đạt 35,05% kế hoạch, tăng 55,76% so với cùng kỳ. Số ngày điều trị trung bình là 6,13 ngày, giảm 1,19 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn, ngộ độc, chấn thương là 4.010 trường hợp, tăng 2.535 trường hợp so với cùng kỳ.
7.5. Tai nạn giao thông
Trong tháng 5/2023, toàn tỉnh xảy ra 06 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 07 người, bị thương 01 người. So với tháng 4/2023, số vụ tăng 03 vụ, số người chết tăng 06 người và số người bị thương giảm 01 người. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ tăng 04 vụ, số người chết tăng 06 người và số người bị thương tương đương. Nguyên Nhân do không chú ý quan sát là 04 vụ, chuyển hướng là 01 vụ và nguyên nhân khác là 01 vụ.
Trong 05 tháng đầu năm 2023 (từ ngày 15/12/2022 đến ngày 14/5/2023), toàn tỉnh xảy ra 31 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 31 người, bị thương 05 người. So cùng kỳ năm 2022, số vụ tăng 06 vụ, số người chết tăng 05 người và số người bị thương tăng 03 người.
7.6. Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Ước tổng giá trị thiệt hại do thiên tai từ đầu năm đến nay là 1.312 triệu đồng, tăng 463 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2022. Cụ thể:
- Tình hình sạt lở: Trong tháng, xảy ra 05 vụ sạt lở với tổng chiều dài sạt lở là 160m và diện tích mất đất 905m2, ước thiệt hại 941 triệu đồng. So với tháng trước giảm 02 vụ sạt lở, số tiền thiệt hại ước tăng 738 triệu đồng, diện tích mất đất ước tăng 218m2. So với cùng kỳ năm 2022, tăng 03 vụ sạt lở, diện tích mất đất tăng 218m2, ước thiệt hại tăng 586 triệu đồng (Tháng 5 năm 2022, xảy ra 2 vụ sạt lở, diện tích mất đất 422m2, ước thiệt hại 373 triệu đồng). Lũy kế từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 18 trường hợp sạt lở, chiều dài sạt lở 400m; diện tích mất đất 1.979m2; ước thiệt hại là 1.312 triệu đồng. So với cùng kỳ năm 2022, số vụ sạt lở tăng 15 vụ, số tiền thiệt hại ước tăng 906 triệu đồng, diện tích mất đất tăng 306m2.
- Lốc, sét, mưa đá: Trong tháng không xảy ra dông lốc. So với tháng trước, không xảy ra dông lốc. So với cùng kỳ năm 2022, xảy ra 01 vụ giông lốc, làm tốc mái, hư hại 01 căn nhà và 02 phòng học, ước thiệt hại 270 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm đến nay không xảy ra dông lốc. So với cùng kỳ năm 2022, xảy ra 02 vụ giông lốc, làm tốc mái hư hại 26 căn nhà, sập 6 căn nhà, ước thiệt hại 443 triệu đồng.
Trong tháng, Cảnh sát môi trường phối hợp với Thanh tra môi trường đã kiểm tra một số đơn vị sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh phát hiện 03 vụ vi phạm môi trường về vận chuyển, chôn, lắp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; vi phạm các điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm và vi phạm quy định về vệ sinh thú y. Xử lý 05 vụ với số tiền xử phạt là 98,25 triệu đồng; So với tháng trước, phát hiện giảm 03 vụ, xử lý tăng 01 vụ và số tiền xử phạt tăng 81,25 triệu đồng; So với cùng kỳ năm 2022, số vụ vi phạm bằng nhau, xử lý tăng 04 vụ, số tiền xử phạt tăng 28,25 triệu đồng, (tháng 5 năm 2022, phát hiện vi phạm môi trường 3 vụ, xử lý 01 vụ, số tiền xử phạt 70 triệu đồng). Tích lũy từ đầu năm, số vụ vi phạm môi trường phát hiện là 22 vụ, xử lý 21 vụ với số tiền xử phạt là 465,75 triệu đồng, so với cùng kỳ năm 2022, số vụ vi phạm giảm 04 vụ, xử lý giảm 02 vụ và số tiền xử phạt giảm 39,75 triệu đồng (cộng dồn từ tháng 01 đến tháng 5 năm 2022, số vụ vi phạm môi trường phát hiện 26 vụ, xử lý 23 vụ, xử phạt 505,50 triệu đồng).
Về công tác phòng, chống cháy, nổ luôn được các ngành chức năng quan tâm thực hiện, định kỳ có kiểm tra, hướng dẫn người dân, các cơ sở kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về phòng cháy, chữa cháy. Tuy nhiên, tính từ đầu năm đến nay đã xảy ra 01 vụ cháy, nổ, làm 01 người bị thương, ước tính thiệt hại khoảng 525 triệu đồng./.
[1] Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 56,73 ha, tăng 1,36% (bằng 0,76 ha) so cùng kỳ.
[2] Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân.
[3] Cụ thể: Một số ngành công nghiệp duy trì sản xuất ổn định và có chỉ số sản xuất tăng so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất mì ống, mì sợi và sản phẩm tương tự tăng 16,75%; sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thuỷ sản tăng 15,97%; sản xuất trang phục tăng 10,41%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 13,29%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 34,52%; sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic tăng 64,85%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 270,92% … Ở chiều ngược lại, một số ngành sản xuất sản phẩm chủ yếu phục vụ xuất khẩu, có chỉ số sản xuất giảm hoặc tăng thấp hơn mức tăng chung của toàn ngành như: Sản xuất, chế biến, bảo quản thủy sản giảm 23,75%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 13,9%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 2,82% ....
[4] Nguyên nhân ước vốn đầu tư thực hiện tăng so với cùng kỳ là do thời tiết thuận lợi tạo điều kiện cho các đơn vị thi công tập trung đẩy nhanh tiến độ các công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh; dịch bệnh Covid-19 đã hoàn toàn được kiểm soát nên các dự án, công trình thi công không bị gián đoạn. Chủ đầu tư tập trung hoàn thành các thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán, tiến độ chuẩn bị các thủ tục đầu tư và tiến độ thực hiện các công trình được đảm bảo thời gian; Được sự quan tâm của Tỉnh ủy và UBND tỉnh trong việc chỉ đạo giải quyết nhanh, kịp thời các khó khăn vướng mắc và đảm bảo đúng tiến độ, sớm đưa các công trình hoàn thành vào khai thác, sử dụng đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.
Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang