Tình hình kinh tế - xã hội cả nước nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng trong năm 2023 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều biến động phức tạp và bất ổn. Tại thời điểm cuối năm 2023, các tổ chức quốc tế điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 theo các hướng khác nhau và đều thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng năm 2022. Cụ thể, Liên minh châu Âu (EU) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 đạt 3,1%, điều chỉnh tăng 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 5/2023; Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt 3,0%, giữ nguyên so với dự báo tháng 7/2023; Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) nhận định kinh tế toàn cầu năm 2023 tăng trưởng 2,9%, điều chỉnh giảm 0,1 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2023; Fitch Ratings (FR) dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2023 đạt 2,9%, cao hơn 0,4 điểm phần trăm so với dự báo trong tháng 9/2023; Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định tăng trưởng toàn cầu đạt 2,1% năm 2023, giữ nguyên so với dự báo trong tháng 6/2023.
Trong Báo cáo Triển vọng phát triển châu Á tháng 12, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) giữ nguyên dự báo tăng trưởng năm 2023 của các quốc gia: In-đô-nê-xi-a, Phi-li-pin và Xin-ga-po, lần lượt đạt 5,0%, 5,7%, và 1,0% so với dự báo trong tháng 9/2023. Trong khi đó, dự báo tăng trưởng năm 2023 của Ma-lai-xi-a được điều chỉnh giảm 0,3 điểm phầm trăm, đạt 4,2%; Thái Lan được điều chỉnh giảm 1,0 điểm phần trăm, đạt 2,5%.
Đối với Việt Nam, các tổ chức quốc tế đều hạ dự báo tăng trưởng so với các báo cáo trước đây. Theo Báo cáo triển vọng phát triển châu Á phát hành tháng 12/2023, ADB dự báo tăng trưởng năm 2023 của Việt Nam đạt 5,2%, điều chỉnh giảm 0,6 điểm phần trăm so với dự báo tháng 9/2023. Cả WB và IMF đều dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 4,7% năm 2023, tuy nhiên WB điều chỉnh giảm 1,3 điểm phần trăm so với dự báo tháng 6/2023 và IMF điều chỉnh giảm 1,1 điểm phần trăm so với dự báo tháng 4/2023.
Trước những khó khăn, thách thức của tình hình kinh tế -xã hội trên thế giới, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sát sao chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023; Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; Chỉ thị 03/CT-TTg ngày 27/01/2023 của Thủ tướng Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm cùng nhiều chính sách, giải pháp để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân với quyết tâm tạo động lực đột phá để phát triển kinh tế theo mục tiêu đã đề ra.
Năm 2023 là năm thứ ba thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025, có ý nghĩa quan trọng với việc đánh giá giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, đồng thời đánh dấu giai đoạn quan trọng trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, với quyết tâm phục hồi và phát triển kinh tế, tạo đà phấn đấu hoàn thành mục tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là sản suất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, biến động về giá cả nguyên, vật liệu ..., song với sự đoàn kết, thống nhất và tinh thần nỗ lực, quyết tâm cao. Ngay từ đầu năm, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đã được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh xác định tại các Nghị quyết[1]. Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 27/QĐ-UBND ngày 30 tháng 01 năm 2023 Ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; Dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023. Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt triển khai các nhiệm vụ, giải pháp; đã đề ra một loạt các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển, khơi thông nguồn vốn đầu tư, phát động phong trào khởi nghiệp sáng tạo, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính ... Với sự tập trung chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, điều hành chủ động, linh hoạt của Ủy ban nhân dân tỉnh, các cấp, các ngành, các đơn vị đã khẩn trương tập trung triển khai đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm theo chương trình, kế hoạch đề ra. Trên tinh thần quyết tâm, quyết liệt, trách nhiệm cao của các cấp, các ngành, cùng với đó, sự đồng thuận, ủng hộ và tham gia tích cực của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp là yếu tố quan trọng giúp nền kinh tế của tỉnh vượt qua những khó khăn, thách thức. Nhờ vào những nỗ lực đó, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Kon Tum tiếp tục phát triển, nhiều chỉ tiêu quan trọng của tỉnh tăng cao so với cùng kỳ như: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp, ... Cải cách thủ tục hành chính đạt được nhiều kết quả tích cực, kinh tế số, xã hội số được chú trọng phát triển; công tác quản lý nhà nước về lâm nghiệp được triển khai quyết liệt, vi phạm về lâm luật giảm so với cùng kỳ; quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; đối ngoại được mở rộng... Nhờ vào những nỗ lực đó, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong năm 2023 đã đạt được một số kết quả nhất định, cụ thể của các ngành, lĩnh vực như sau:
- Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP ước tăng 7,32%[2].
- Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước khoảng 4.200 tỷ đồng, tăng 3,83% so với năm trước.
- Tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 11.968 tỷ đồng, tăng 28,04% so với năm trước.
-Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn theo giá hiện hành ước tính năm 2023 đạt 27.036 tỷ đồng, tăng 16,86% so với cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 8,91%.
- Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước đạt 34.184,24 tỷ đồng, tăng 17,27% so với cùng kỳ năm trước.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2023 tăng 4,55% so với năm trước.
- Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn cơ bản ổn định.
1. Tăng trưởng kinh tế (GRDP)
1.1. Tăng trưởng toàn nền kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý IV/2023 ước tăng 7,98% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản tăng 5,96%; Khu vực Công nghiệp và Xây dựng tăng 11,52%; Khu vực Dịch vụ tăng 8,34%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 3,18%.
Tính chung cả năm 2023 Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) (theo giá so sánh 2010) ước tính đạt 18.938,78 tỷ đồng, tăng 7,32% so với năm trước (quý I tăng 6,71%; quý II tăng 6,98%; quý III tăng 7,14%; quý IV tăng 7,98%). Trong đó: Khu vực Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản đạt 3.974,60 tỷ đồng, tăng 5,84%; Khu vực Công nghiệp và Xây dựng đạt 5.496,03 tỷ đồng, tăng 10,66%, trong đó Công nghiệp đạt 2.440,88 tỷ đồng, tăng 11,96%; Khu vực Dịch vụ đạt 7.947,91 tỷ đồng, tăng 6,71%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 1.520,24 tỷ đồng, tăng 2,89%. Có thể nói đây là mức tăng khá cao so với các năm gần đây, thể hiện đầy đủ và đúng xu hướng phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh.
GRDP năm 2023 tăng 7,32% so với năm trước, tuy không đạt theo kỳ vọng nhưng là mức tăng tương đối cao trong giai đoạn 2019-2023, các hoạt động sản xuất kinh doanh dần lấy lại đà tăng trưởng, chính sách phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh uỷ, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đã được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh xác định tại các Nghị quyết (Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày 02-12-2022; Nghị quyết số 78/NQ-HĐND ngày 09-12-2022). Với tinh thần quyết liệt, trách nhiệm cao của các cấp, các ngành, sự tin tưởng, đồng lòng, quyết tâm của cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân, kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2023 đã phát huy hiệu quả
1.2. Tăng trưởng các khu vực kinh tế
Trong mức tăng trưởng chung 7,32% thì nhóm ngành nông, lâm, thủy sản đóng góp 1,24 điểm phần trăm; nhóm ngành công nghiệp, xây dựng đóng góp 3,0 điểm phần trăm, trong đó Công nghiệp đóng góp 1,48 điểm phần trăm; nhóm thương mại, dịch vụ đóng góp 2,83% và Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đóng góp 0,24 điểm phần trăm.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh đạt được tốc độ tăng trưởng như trên là do hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt đều có tốc độ tăng trưởng, cụ thể các khu vực như sau:
(1) Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Trong năm 2023, tình hình thời tiết trên địa bàn tỉnh so với năm trước có mưa nhiều, lượng mưa trải đều các tháng đã làm cho lượng nước ở các sông, suối, hồ, đập thủy điện tăng. Các công trình hồ, đập thủy điện đã được đầu tư kiên cố, cơ bản đáp ứng đủ nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Chính vì vậy, mà nguồn nước dự trữ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản năm 2023 đã đáp ứng được yêu cầu, tạo thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng 5,84% so với năm 2022, đóng góp 1,24 điểm phần trăm vào mức tăng GRDP. Đây là khu vực ghi nhận tốc độ tăng đồng đều trong các quý. Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng của một số cây lâu năm, chăn nuôi gia cầm và hoạt động thủy sản phát triển tốt, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu tăng khá nên tốc độ tăng của khu vực này đạt cao. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan năm 2023 tăng 5,84% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1,11 điểm phần trăm; ngành Lâm nghiệp và hoạt động dịch vụ có liên quan tăng 4,11%, đóng góp 0,07 điểm phần trăm; ngành Khai thác, nuôi trồng thủy sản 10,14%, đóng góp 0,07 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Sản xuất nông nghiệp năm 2023 cơ bản tương đối ổn định, năng suất lúa và một số cây trồng khác tăng nhẹ so với năm trước; sản lượng một số loại cây lâu năm tăng nhẹ, giá thành sản phẩm một số loại như cà phê, sầu riêng … tăng so với năm trước nên người dân phấn khởi yên tâm đầu tư, chăm sóc cây trồng cho năm tiếp theo. Bên cạnh đó việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ cây có hiệu quả kinh tế thấp sang trồng các loại cây mang lại hiệu quả kinh tế cao như: Trồng các loại cây ăn quả, mắc ca, sâm Ngọc linh được địa phương quan tâm đầu tư mở rộng diện tích.
Tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây lâu năm sơ bộ năm 2023 trên địa bàn tỉnh Kon Tum là 130.169 ha, tăng 6,24% (+7.646 ha) so với cùng kỳ năm trước, cụ thể một số cây trồng như sau:
(1) Cây ăn quả: 14.031 ha, tăng 46,23% (+4.436 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cây sầu riêng: Diện tích hiện có 2.547 ha, tăng 61,01% (+965 ha), sản lượng thu hoạch 2.081 tấn, tăng 23,65% (+398 tấn); Cây mít: Diện tích hiện có 1.135 ha, tăng 28,72% (+253 ha); Sản lượng thu hoạch 2.450 tấn, tăng 8,12% (+184 tấn); Cây bơ: Diện tích hiện có 770 ha, tăng 34,07% (196 ha); Sản lượng thu hoạch 1.375 tấn, tăng 5,18% (+68 tấn); Cây cam: Diện tích hiện có 968 ha, tăng 29,2% (+219 ha); Sản lượng thu hoạch 3.382 tấn, tăng 4,71% (+152 tấn); Cây mắc ca: Diện tích hiện có 3.466 ha, tăng 49,77 (+1.152); Sản lượng thu hoạch 292 tấn, tăng 4,17% (+12 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
(2) Cao su: Diện tích hiện có 79.018 ha, tăng 1,91% (+1.477 ha) so với cùng kỳ năm trước, đây là nhóm cây có tỷ trọng diện tích lớn nhất trong tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh. Sản lượng thu hoạch cao su 91.900 tấn, tăng 6,33% (+5.469 tấn) so với cùng kỳ năm trước
(3) Cà phê: Diện tích hiện có 29.813 ha, tăng 2,35% (+685 ha); Sản lượng thu hoạch cà phê 66.300 tấn, tăng 6,17% (+3.855 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Trồng cây hàng năm: Sản lượng lúa đạt: 100.260,79 tấn, tăng 3,2% (+3.107,77 tấn) so với năm trước.
Hoạt động chăn nuôi được các ngành chức năng quan tâm đầu tư mở rộng, chăn nuôi gia cầm đạt kết quả tích cực; dịch bệnh trên vật nuôi được phòng, chống và xử lý kịp thời: Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng: 792 tấn, tăng 2,92% (+23 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng: 5.514 tấn, tăng 3,57% (+190 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng: 23.100 tấn, tăng 5,75% (+1.256 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Trong năm 2023 tổng lượng gỗ khai thác các loại ước đạt 161.113 m3, tăng 2,1%(+83.366 m3) so với năm trước; Lượng củi khai thác ước đạt 285.580 ster, tăng 3,3% (+9.003 ster) so với năm trước. Các sản phẩm khác ngoài gỗ, sản phẩm thu nhặt từ rừng trừ gỗ tăng nhẹ so với năm trước, như: nhựa thông ước đạt 260 tấn, tăng 1,2% (+ 3 tấn), vỏ bời lời ước đạt 5.880 tấn, tăng 1% (+58 tấn)...
Sản lượng thủy sản đạt 8.158 tấn, tăng 14,46% (+1.031 tấn) so với năm trước. Trong đó: Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 2.136 tấn, chiếm 26,21%; Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 6.022 tấn, chiếm 73,79%.
(2) Khu vực Công nghiệp - Xây dựng
- Khu vực Công nghiệp - Xây dựng có mức tăng khá cao, đạt 10,66% so với năm trước, đóng góp 3,0 điểm phần trăm vào mức tăng chung GRDP. Trong đó ngành công nghiệp tăng 11,96%, đóng góp 1,48 điểm phần trăm; ngành xây dựng tăng 9,64%, đóng góp 1,52 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế.
Trong mức tăng chung 11,96% của ngành công nghiệp thì ngành công nghiệp khai khoáng tăng 12,49% đóng góp 0,04 điểm phần trăm; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,95% đóng góp 0,35 điểm phần trăm; ngành công nghiệp sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước tăng 13,02% đóng góp 1,06 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải tăng 7,89% đóng góp 0,03 điểm phần trăm.
Một số sản phẩm sản xuất chủ yếu ngành công nghiệp ước tính tăng so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 478.855m3, tăng 9,62%; Tinh bột sắn sản xuất 279.419 tấn, tăng 6,1%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 212.934 triệu viên, tăng 3,45%; điện sản xuất 3.335 triệu Kwh, tăng 9,36%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12 năm 2023 tăng 17,57% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung tình hình tiêu thụ sản phẩm trong tháng tương đối thuận lợi, hầu hết các nhóm ngành đều có chỉ số tiêu thụ tăng. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính đến thời điểm 31/12/2023 giảm 18,46% so với cùng thời điểm năm trước. Hiện tại các doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất ổn định, lượng sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ hết nên chỉ số tồn kho giảm.
- Hoạt động xây dựng năm 2023 vẫn tiếp tục tăng trưởng khá đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế tỉnh. Giá trị tăng thêm ngành xây dựng năm 2023 tăng 9,64%, đóng góp 1,52 điểm phần trăm, chiếm 16,13% giá trị tổng sản phẩm toàn tỉnh và chiếm 55,59% giá trị tăng thêm khu vực công nghiệp - xây dựng. Do vậy, tăng trưởng của ngành xây dựng đóng góp rất lớn trong tăng trưởng chung của nền kinh tế.
(3) Khu vực dịch vụ
Các ngành kinh tế trong khu vực dịch vụ được coi là ngành “công nghiệp không khói”, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, nó đã, đang và sẽ được nhà nước khuyến khích phát triển để tạo bước đột phá trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng khởi sắc khi nhiều hoạt động dịch vụ sôi động trở lại, năm 2023 ước tính giá trị tăng thêm có mức tăng 6,71% so với năm 2022, đóng góp 2,83 điểm phần trăm vào mức tăng chung GRDP. Một số ngành có đóng góp trong nền kinh tế, chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực dịch vụ đó là nhóm ngành: Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác tăng 8,99%; vận tải kho bãi tăng 8,85%; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 19,41%; thông tin và truyền thông tăng 6,59%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,03%; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 14,12%; Nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 13,62%; Hoạt động dịch vụ khác tăng 11,39%.
1.3. Quy mô và cơ cấu nền kinh tế
Quy mô nền kinh tế tỉnh Kon Tum năm 2023 theo giá hiện hành ước tính đạt 34.539,97 tỷ đồng, trong đó: Khu vực I (Nông - Lâm - Thuỷ sản) đạt 6.623,27 tỷ đồng, chiếm 19,18%; khu vực II (Công nghiệp - Xây dựng) đạt 11.182,13 tỷ đồng, chiếm 32,37%; khu vực III (Dịch vụ) đạt 13.962,08 tỷ đồng, chiếm 40,42%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 2.772,4 tỷ đồng, chiếm 8,03%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. GRDP bình quân đầu người khoảng 58,42 triệu đồng (năm 2022 khoảng 52,44 triệu đồng).
2. Tài chính, ngân hàng
Thu, chi ngân sách
Thu ngân sách ước thực hiện cả năm thu 4.200 tỷ đồng đạt 129,4% dự toán Trung ương giao, đạt 93,3% dự toán Hội đồng nhân dân tỉnh giao và tăng 3,83% so với cùng kỳ, trong đó: Thu nội địa: Ước thực hiện thu 3.762 tỷ đồng đạt 132,4% dự toán Trung ương giao, đạt 92,9% dự toán HĐND tỉnh giao và tăng 2,67% so với cùng kỳ.
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2023 ước thực hiện chưa đạt tiến độ dự toán được Hội đồng nhân dân tỉnh giao. Nguyên nhân là do diễn biến tình hình thời tiết trong các tháng đầu năm 2023 nắng nóng và khô hạn, lượng mưa giảm ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng điện và số thu nộp ngân sách. Thị trường bất động sản trầm lắng, do đó ảnh hưởng lớn đến tình hình thực hiện các dự án khai thác quỹ đất trên địa bàn tỉnh, dẫn đến số thu ngân sách các khoản thu liên quan đến đất đai năm 2023 giảm sâu; bên cạnh đó thực hiện cơ chế, chính sách miễn, giảm thuế của Quốc hội, Chính phủ đã ảnh hưởng đến số thu nộp ngân sách năm 2023. Tình hình thực hiện kế hoạch vốn đầu tư công trên địa bàn tỉnh vẫn còn chậm. Đối với các dự án sử dụng vốn từ nguồn thu tiền sử dụng đất và các nguồn thu để lại đầu tư thì được giải ngân theo tiến độ nguồn thu nộp NSNN.
Chi ngân sách ước thực hiện cả năm 11.968 tỷ đồng, đạt83,7% nhiệm vụ chi và tăng 28,04% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, chi đầu tư phát triển đạt là 4.486 tỷ đồng đạt 89% nhiệm vụ chi, tăng 11,86% so với cùng kỳ năm trước, chi thường xuyên đạt 7.422 tỷ đồng, đạt 101% nhiệm vụ chi, bằng 145,43% so với cùng kỳ năm trước, chi thường xuyên vượt dự toán giao đầunăm chủ yếu tăng kinh phí do thực hiện chế độ cải cách tiền lương mới theo Nghị định số 24/2023/NĐ-CP (lương cơ sở 1,8 triệu đồng).
b) Hoạt động ngân hàng[3]
(1) Tình hình thực hiện lãi suất
- Về thực hiện lãi suất huy động: Các TCTD trên địa bàn chấp hành tốt các quy định về lãi suất huy động. Mặt bằng lãi suất huy động tại các TCTD tương đối ổn định. Theo đó, mức lãi suất phổ biến đối Tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 01 tháng : ≤0,5 %/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 01 đến dưới 6 tháng, lãi suất từ ≤4,75%/năm; Tiền gửi kỳ hạn từ 6 đến dưới 12 tháng: 4,0-5,0%/năm; Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên: 5,0-6,0%/năm. Lãi suất huy động bằng USD thực hiện theo mức quy định tối đa 0% đối với tiền gửi cá nhân và tổ chức.
- Về thực hiện lãi suất cho vay: Mặt bằng chung lãi suất cho vay tiếp tục duy trì ổn định. Mặt bằng lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường duy trì ở mức 4,0-10,0%/năm; Lãi suất cho vay trung, dài hạn phổ biến: 10,0-12,0%/năm.
(2) Hoạt động huy động vốn: Trong kỳ báo cáo, lãi suất huy động có sự điều chỉnh theo xu hướng giảm nhẹ so với cuối năm 2022, trong đó mức lãi suất huy động các kỳ hạn từ 12 tháng trở xuống có xu hướng giảm và duy trì ở mức ngang bằng so với năm 2022, bên cạnh đó, mức lãi suất huy động giữa các kỳ hạn từ 12 tháng trở xuông và từ 12 tháng trở lên không có sự chênh lệch đáng kể, nên khách hàng có xu hướng chọn gửi tiền ở các kỳ hạn ngắn để linh hoạt trong chi tiêu, tiêu dùng. Tuy nhiên, trong năm các TCTD trên địa bàn luôn chủ động, tích cực đẩy mạnh nhiêu biện pháp, chương trình khuyến mại có tính hấp dẫn hơn so với các kênh đầu tư khác để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế, nên nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm tiếp tục có mức tăng trưởng ổn định, đáp ứng được một phần nhu cầu vốn tín dụng trên địa bàn.
Đến ngày 31/12/2023, tổng nguồn vốn huy động toàn địa bàn ước đạt 21.750 tỷ đồng, tăng 9,4% (+1.875 tỷ đồng) so với cuối năm 2022, mức tăng trưởng nguồn vốn huy động cao hơn so với cùng kỳ năm trước (+6,4%). Trong đó, nguồn vốn huy động trên 12 tháng ước đạt 1.675 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 7,7% tổng nguồn vốn huy động, giảm 17,8% (-362 tỷ đồng) so với thời điểm 31/12/2022.
(3) Hoạt động tín dụng: Trong kỳ báo cáo, các TCTD trên địa bàn tiếp tục triển khai thực hiện chỉ đạo của NHNN Việt Nam và Chi nhánh, tập trung nguồn vốn tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, các ngành nghề là thế mạnh của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, phục hồi sản xuất kinh doanh. Trước những thách thức của nền kinh tế, nguồn vốn tín dụng ngân hàng tiếp tục góp phần tích cực vào tiến trình phục hồi và phát triển kinh tế của địa phương, các TCTD đã triển khai đa dạng, linh hoạt các sản phâm tín dụng, các gói tín dụng ưu đãi của riêng từng hệ thống TCTD để phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp và người dân trên địa bàn.
Kết quả tăng trưởng tín dụng trên địa bàn trong năm 2023 tương đối thấp, cho thấy đến thời điểm hiện tại nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức đan xen, khả năng phục hồi và hấp thụ vốn tín dụng để phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn còn hạn chế. Mức tăng trưởng tín dụng năm 2023 trên địa bàn thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ năm trước (+11,7%), cụ thể: Đến ngày 31/12/2023, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn ước đạt 46.000 tỷ đồng, tăng 7,2% (+3.073 tỷ đồng) so với cuối năm 2022. Trong đó:
- Dư nợ phân theo kỳ hạn: Dư nợ ngắn hạn ước đạt 28.000 tỷ đồng, chiếm 60,9% tổng dư nợ, tăng 6,4% (+1.685 tỷ đồng) so với đầu năm; Dư nợ trung, dài hạn ước đạt 18.000 tỷ đồng, chiếm 39,1% tổng dư nợ, tăng 8,4% (+1.388 tỷ đồng) so với đầu năm.
- Dư nợ phân theo loại hình tổ chức/cá nhân: Dư nợ cho vay doanh nghiệp ước đạt 14.700 tỷ đồng, chiếm 32,0% tổng dư nợ, tăng 6,6% (+909 tỷ đồng) so với đầu năm.
3. Chỉ số giá, lạm phát
3.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2023 tăng 0,19% so với tháng trước, tác động chính là do giá dịch vụ y tế tăng. So với tháng 12/2022 CPI tháng 12 tăng 1,91%. Bình quân năm 2023, CPI tăng 4,55%.
So với tháng trước chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2023 tăng 0,19% (khu vực thành thị tăng 0,15%; khu vực nông thôn tăng 0,22%). Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 05 nhóm tăng là nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,19%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,74%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,07%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 8,73%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,34%. Có 05 nhóm giảm là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,06%; nhóm đồ uống và thuốc lá giảm 0,15%; nhóm giao thông giảm 2,32%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,64%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,41%. Có 01 nhóm không biến động giá là nhóm giáo dục.
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2023 so với tháng trước của một số nhóm hàng chính như sau:
(1) Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (-0,06%)
- Chỉ số nhóm lương thực tăng 0,48%, trong đó chỉ số nhóm gạo tăng 0,65% (gạo tẻ thường tăng 0,69%, gạo tẻ ngon tăng 0,54%, gạo nếp tăng 0,07%), nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng. Nhóm bột mì và ngũ cốc khác tăng 1,38%, trong đó khoai tăng 2,13%, ngô tăng 3,56% là do nhu cầu tiêu dùng tăng và sản phẩm trái vụ nên làm cho giá tăng theo.
- Chỉ số nhóm thực phẩm giảm 0,2%, cụ thể: nhóm thịt gia súc tươi sống giảm 0,46%, trong đó thịt lợn giảm 0,81%, nguyên nhân chủ yếu là do lượng cung tăng và nhu cầu tiêu dùng giảm, riêng thịt bò tăng 0,08% là do nhu cầu tiêu dùng tăng . Nhóm thịt gia cầm tăng 2,96%, trong đó giá thịt gà tăng 2,66%, thịt gia cầm khác tăng 4,56%. Nhóm dầu mỡ và chất béo khác tăng 0,48%, trong đó dầu thực vật tăng 0,63%, riêng mỡ động vật giảm 0,68% là do giảm theo giá thịt lợn. Nhóm thủy sản tươi sống giảm 0,58% là do nhóm tôm tươi hoặc ướp lạnh giảm 2,44%, nguyên nhân chủ yếu là do lượng cung tăng nên làm cho giá giảm theo.
Nhóm rau tươi, khô và chế biến giảm 0,32%, trong đó bắp cải giảm 2,22%, rau dạng quả, củ giảm 3,14%, rau chế biến các loại giảm 3,75%, nguyên nhân chủ yếu là do các sản phẩm đang mùa thu hoạch. Ở chiều ngược lại một số mặt hàng rau tăng như: cà chua tăng 13,28%, khoai tây tăng 2,35%, su hào tăng 5,75%, đỗ quả tươi tăng 3,32%, nguyên nhân là các sản phẩm rau trên trái vụ và lượng cung giảm.
Nhóm quả tươi, chế biến giảm 0,97%, trong đó quả có múi giảm 0,94%, quả tươi khác giảm 1,45%, chuối giảm 0,24%, nguyên nhân là do nhu cầu tiêu dùng giảm và các sản phẩm đang mùa thu hoạch.
Nhóm đường, mật tăng 0,43%, trong đó mật ong tăng 2,27%. Nhóm sữa, bơ, pho mai tăng 0,35% là do sữa đặc tăng 2,65%, sữa bột trẻ em tăng 0,92%. Nhóm bánh, mức, kẹo tăng 1,18%, chủ yếu do bánh quy, bánh nướng tăng 1,39%, kẹo các loại tăng 0,98%.
- Ăn uống ngoài gia đình (+0,02%)
Nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 0,02%, trong đó uống ngoài gia đình tăng 0,23% là do tăng giá mặt hàng nước giải khát.
(2) Đồ uống và thuốc lá (-0,15%)
Chỉ số nhóm đồ uống và thuốc lá giảm 0,15%, là do nhóm rượu, bia giảm 0,33%, trong đó bia các loại giảm 0,54% là do nhu cầu tiêu dùng giảm nên giá giảm theo; nhóm thuốc hút giảm 0,01% là do thuốc lào giảm 0,61%.
(3) May mặc, mũ nón và giày dép (+0,19%)
Chỉ số nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,19%, trong đó vải các loại tăng 0,68%; nhóm may mặc khác tăng 1,11%, trong đó găng tay, thắt lưng tăng 1,32%, bít tất các loại tăng 1,15%; nhóm giầy dép tăng 0,41%; nhóm mũ nón tăng 0,42%. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu mua sắm nhân dịp Lễ Noel tăng nên giá tăng theo.
(4) Nhà ở và vật liệu xây dựng (+0,74%)
Chỉ số nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,74%, nguyên nhân chính là do giá điện sinh hoạt tăng 2,68% theo Quyết định số 1416/QĐ-EVN ngày 8/11/2023 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam về việc điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân; nhóm nhà ở thuê tăng 0,46%, trong đó tiền thuê nhà thực tế tăng 0,8%. Ở chiều ngược lại giá dầu hỏa qua các đợt điều chỉnh giá tính bình quân so với tháng trước giảm 5,2%; nước sinh hoạt giảm 0,81% là do nhu cầu tiêu dùng giảm nên giá bình quân giảm.
(5) Thiết bị và đồ dùng gia đình (+0,07%)
Chỉ số nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,07%, tăng chủ yếu là do đồ điện tăng 0,18%; máy giặt tăng 1,22% là do các tháng trước có khuyến mãi giảm giá nay giá đã ổn định trở lại; đồ dùng nấu ăn tăng 0,88%; hàng thủy tinh, sành sứ tăng 0,1%; sửa chữa thiết bị gia đình tăng 0,52%.
(6) Thuốc và dịch vụ y tế (+8,73%)
Chỉ số nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 8,73%, tăng chủ yếu là do nhóm dịch vụ y tế tăng 10,8% theo Thông tư 22/2023/TT-BYT ngày 17/11/2023 của Bộ Y tế quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trong toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế trong một số trường hợp; nhóm thuốc các loại tăng 0,21%, trong đó thuốc chống dị ứng tăng 0,73%, thuốc tim mạch tăng 0,14%, thuốc giảm đau tăng 0,26%.
(7) Giao thông (-2,32%)
Chỉ số nhóm giao thông giảm 2,32%, nguyên nhân chủ yếu là do nhóm nhiên liệu giảm 5,34%, do trong tháng có các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu tính bình quân so với tháng trước thì chỉ số giá dầu diezel giảm 7,59%, giá xăng giảm 5,32%. Ở chiều ngược lại, nhóm phụ tùng tăng 0,35%, trong đó phụ tùng khác của xe máy tăng 0,4%, lốp, xăm xe máy tăng 0,32%; dịch vụ giao thông công cộng tăng 1,41%, là do vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 15,39%.
(8) Bưu chính viễn thông (-0,64%)
Chỉ số nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,64%, là do thiết bị điện thoại giảm 1,83%, trong đó máy điện thoại di động thông minh và máy tính bảng giảm 2,22%, máy điện thoại di động thông thường giảm 1,99%, nguyên nhân chủ yếu là do các cơ sở kinh doanh giảm giá khuyến mãi nhiều dòng điện thoại di động.
(9) Văn hóa, giải trí và du lịch (-0,41%)
Chỉ số nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,41% là do nhóm thiết bị văn hóa giảm 1,75%, trong đó ti vi màu giảm 1,84% là do các đơn vị kinh doanh giảm giá khuyến mãi để kích cầu.
(10) Hàng hóa và dịch vụ khác (+0,34%)
Chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,34% là do nhóm đồ dùng cá nhân tăng 0,74%, trong đó hàng chăm sóc cơ thể tăng 0,45%; đồ trang sức tăng 4,34% là tăng theo giá vàng.
So với tháng 12/2022, CPI tháng 12/2023 tăng 1,91%. Trong 11 nhóm hàng tiêu dùng chính có 09 nhóm tăng giá và 2 nhóm giảm giá.
Các nhóm tăng là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,8%, tăng chủ yếu là do giá gạo tăng; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,74%; nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 3,48%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 4,97%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,63%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 9,64%, tăng chủ yếu do giá dịch vụ y tế tăng; nhóm giao thông tăng 1,08%; nhóm giáo dục tăng 1,12%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,89%.
Các nhóm giảm là nhóm Bưu chính viễn thông giảm 6,1%, giảm chủ yếu là do mặt hàng điện thoại di động giảm; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 3,36%.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2023 tăng 4,55% so với bình quân năm 2022, trong đó có 8 nhóm hàng tăng giá và 3 nhóm giảm giá.
Các nhóm tăng giá:
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 6,55%, trong đó giá lương thực tăng 6,98% (giá gạo tăng 7,51% do ảnh hưởng giá gạo xuất khẩu tăng); giá thực phẩm tăng 3,95% do giá thịt gia súc tăng 3,3% (riêng thịt lợn tăng 5,44%), thịt gia cầm tăng 2,96%, trứng các loại tăng 3,12%, thủy sản tươi sống tăng 4,81%, các loại đậu và hạt tăng 13,88%, rau tươi, khô và chế biến tăng 7,02%; đường mật tăng 4,93%; sữa, bơ, pho mai tăng 7,38%; ăn uống ngoài gia đình tăng 14,07%.
- Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 4,03%, là do nhóm giá rượu bia tăng 6,2%, trong đó bia tăng 6,88%, rượu tăng 5,17% là do nhu cầu tiêu dùng tăng cao trong dịp Lễ, Tết Nguyên đán đầu năm.
- Nhóm may mặc, mũ nón và giầy dép tăng 4,41%, trong đó giá quần áo may sẵn tăng 5,41%, giầy dép tăng 3,9%, dịch vụ may mặc tăng 4,83% là do nhu cầu tiêu dùng tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán, các dịp nghỉ Lễ trong năm và đầu năm học mới.
- Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3,72% chủ yếu do giá vật liệu xây dựng tăng 4,91%, giá nhà ở thuê tăng 5,28%, điện sinh hoạt tăng 2,72%; ở chiều ngược lại giá gas giảm 9,33%, giá dầu hỏa giảm 10,07%, nước sinh hoạt giảm 2,72%.
- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,43% là do giá đồ điện tăng 3,57%, xà phòng và chất tẩy rửa tăng 5,79%, đồ dùng bằng kim loại tăng 2,47%, dịch vụ trong gia đình tăng 10,44%. Ở chiều ngược lại máy điều hòa nhiệt độ giảm 3,85%, tủ lạnh giảm 3,89%, đồ dùng nấu ăn giảm 3,3%.
- Nhóm thuốc và thiết bị y tế tăng 1,15%, chủ yếu là do giá thuốc các loại tăng 2,65%, dụng cụ y tế tăng 1,11%, dịch vụ y tế tăng 0,86%.
- Nhóm giáo dục tăng 32,5%, trong đó giá văn phòng phẩm tăng 3,84%; dịch vụ giáo dục tăng 42,11% là do năm học 2021-2022 miễn học phí một học kỳ đối với trẻ mầm non và học sinh phổ thông công lập trên địa bàn tỉnh để chia sẻ khó khăn với người dân trong đại dịch theo Nghị quyết số 48/2021/NQ-HĐND ngày 22/10/2021 của HĐND tỉnh Kon Tum.
- Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 4,95%, do giá đồ dùng cá nhân tăng 8,8%, trong đó giá dụng cụ cá nhân không dùng điện tăng 9,7%, giá các mặt hàng chăm sóc cơ thể tăng 11,41%.
Ở chiều ngược lại, có 3 nhóm hàng giảm giá:
- Nhóm giao thông giảm 3,86%, chủ yếu là do giá nhiên liệu giảm 10,82%, trong đó giá xăng giảm 11,09%, giá dầu diezl giảm 13,39%.
- Nhóm bưu chính, viễn thông giảm 5,91% là do giá các loại máy điện thoại di động thế hệ cũ giảm 16,08%.
- Nhóm văn hóa giải trí và du lịch giảm 2,14%, giảm chủ yếu là do giá thiết bị văn hóa giảm 17,63%, trong đó giá tivi màu giảm 18,01%.
3.2. Chỉ số giá vàng và Đô la Mỹ
(1) Chỉ số giá vàng (+4,47%)
Giá vàng trong nước biến động tăng cùng chiều với giá vàng thế giới. Trên địa bàn tỉnh, chỉ số giá vàng tháng 12/2023 tăng 4,47% so với tháng trước; tăng 9,56% so với tháng 12 năm trước; bình quân 12 tháng năm 2023 tăng 1,9% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
(2) Chỉ số giá đô la Mỹ (-0,63%)
Trên địa bàn tỉnh, giá đô la Mỹ tháng 12/2023 bình quân giao dịch quanh mức 24.482 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2023 giảm 0,63% so với tháng trước; tăng 0,92% so với tháng 12 năm trước; bình quân 12 tháng năm 2023 tăng 1,92%.
3.3. Chỉ số giá sản xuất
Giá bán nông, lâm nghiệp và thủy sản trong quý IV năm 2023 trên địa bàn tỉnh Kon Tum thường xuyên chịu sự tác động lớn của yếu tố thị trường; mùa vụ sản xuất,... đã tác động hầu hết các loại giá sản xuất đều có xu hướng biến động tăng so với quý trước. Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản quý IV/2023 tăng 0,63% so với quý III/2023 và tăng 3,44% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá các nhóm hàng nông, lâm, thủy sản tăng (giảm) chủ yếu theo quy luật cung cầu trên địa bàn tỉnh. Trong quý IV năm 2023, việc lưu thông hàng hóa giữa các địa phương trên cả nước khá thuận lợi nên tình hình biến động giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh cũng có phần ảnh hưởng bởi sự biến động giá chung của một số mặt hàng trên cả nước và các tỉnh lân cận.
Tình hình diễn biến giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của một số nhóm hàng chính trong quý IV năm 2023, cụ thể:
(1) Nhóm sản phẩm từ cây hàng năm: Chỉ số sản phẩm cây hàng năm quý IV/2023 tăng 1,1% so với quý trước và tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Nhóm thóc khô tăng 2,09% so quý trước; Nhóm ngô và cây lương thực có hạt khác tăng 0,9% so quý trước; nhóm sản phẩm cây lấy củ có chất bột tăng 0,81% so quý trước chủ yếu do giá mì công nghiệp tăng; thời điểm này chất lượng củ mì tốt, hàm lượng tinh bột trong củ mì rất cao nên các nhà máy sản xuất tinh bột mì tăng giá mua mì nguyên liệu, một mặt hiện nay trên địa bàn tỉnh nhiều nhà máy sản xuất tinh bột đang hoạt động, rất cần nguyên liệu nên trong quý các nhà máy cạnh tranh về giá mua; Nhóm mía cây tươi tăng 0,42% so quý trước do sự biến động thị trường mía chung của cả nước; Nhóm hạt chứa dầu giảm 0,23% do quý IV là thời gian chính vụ thu hoạch cây lạc vụ mùa; Nhóm rau, đậu các loại và hoa tăng 0,4%, do ảnh hưởng giá tăng của thị trường chung; Nhóm sản phẩm cây hàng năm khác giảm 0,99 với quý trước do thời tiết tương đối thuận lợi và là thu hoạch vụ mùa.
(2) Nhóm sản phẩm từ cây lâu năm: Chỉ số giá sản phẩm từ cây lâu năm tăng 0,83% so với quý trước và tăng 4,32% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Nhóm sản phẩm cây ăn quả giảm 0,21% so với quý trước, chủ yếu do đang vụ thu hoạch nhiều loại trái cây, sản lượng thu hoạch tăng, nguồn cung ra thị trường dồi dào; Nhóm hồ tiêu tăng 0,27% so với quý trước; Nhóm mủ cao su khô giảm 0,25% so với quý trước; Nhóm cà phê nhân tăng 2,16% so với quý trước, giá các sản phẩm hồ tiêu, cao su, cà phê biến động phần lớn do ảnh hưởng giá chung của cả nước; Nhóm cây chè giảm 0,77% so với quý trước.
(3) Nhóm sản phẩm từ chăn nuôi: Chỉ số giá sản phẩm từ chăn nuôi tăng nhẹ (tăng 0,07%) so với quý trước và tăng 1,25% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Nhóm sản phẩm chăn nuôi trâu, bò tăng 0,38% so với quý trước; Nhóm sản phẩm chăn nuôi dê, cừu, hươu, nai tăng 0,23% so với quý trước; Nhóm sản phẩm chăn nuôi lợn giảm nhẹ (-0,16%) so với quý trước; Nhóm sản phẩm chăn nuôi gia cầm tăng 0,56% so với quý trước; Nhóm sản phẩm chăn nuôi khác tăng 0,23% so với quý trước. Nguyên nhân là chủ yếu nhóm sản phẩm từ chăn nuôi trong Quý IV năm 2023 tưng nhẹ là do sự biến động giá chung của một số mặt hàng trên cả nước và các tỉnh lân cận, đồng thời chi phí phòng dịch không giảm, giá thức ăn chăn nuôi giảm chậm, dịch tả lợn châu Phi xuất hiện trên địa bàn của tỉnh.
(4) Nhóm dịch vụ nông nghiệp: Chỉ số giá sản phẩm từ dịch vụ nông nghiệp tăng 0,16% so với quý trước và tăng 0,86% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, dịch vụ trồng trọt tăng 0,15%; dịch vụ chăn nuôi tăng 0,49%, nhóm dịch vụ chăn nuôi tăng do nhu cầu sử dụng các dịch vụ trong vụ trong thời điểm mùa vụ thu hoạch.
(5) Nhóm lâm nghiệp: Các sản phẩm lâm nghiệp tương đối ổn định tăng 0,13% so với quý trước và tăng 0,43% so với cùng kỳ năm trước do phần lớn các sản phẩm giữ ổn định giá so với quý trước.
(6) Nhóm thủy sản: Chỉ số giá sản phẩm thuỷ sản khai thác, nuôi trồng sản tăng 0,32% với quý trước và tăng 6,08% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: sản phẩm thuỷ sản khai thác tăng 0,1% với quý trước và tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chủ yếu do nguồn thủy sản tự nhiên giảm, một mặt tâm lý người tiêu dùng luôn ưa chuộng các mặt hàng khai thác tự nhiên nên giá tăng.
b) Giá sản xuất công nghiệp
Chỉ số giá sản xuất công nghiệp quý IV năm 2023 giảm 3,70% so với quý trước và tăng 4,57% so với cùng kỳ năm trước, tình hình tăng giảm cụ thể ở các nhóm ngành như sau:
(1) Nhóm ngành khai khoáng: Chỉ số giá sản phẩm thuộc nhóm ngành khai khoáng tăng 1,85% so với quý trước và tăng 6,73% so cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chủ yếu do giá đá, cát, sỏi tăng vì thời điểm này là cuối năm các công trình xây dựng trên địa bàn đồng loạt triển khai để kịp tiến độ trước tết Nguyên đán.
(2) Nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Chỉ số nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo tăng 0,79% so với quý trước và tăng 7,04% so cùng kỳ năm trước. Trong đó tác động nhiều nhất làm cho chỉ số nhóm ngành này tăng cao là các sản phẩm thuộc ngành Công nghiệp Giường, tủ, bàn ghế, nguyên nhân chủ yếu do đây là quý cuối của năm, người dân bắt đầu tập trung mua sắm nên giá nguyên liệu đầu vào trong quý IV năm 2023 có tăng hơn so với quý trước. Các nhóm ngành khác có biến động không lớn.
(3) Nhóm ngành điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí: giảm 23,74% so với quý trước và giảm 8,27% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù trong tháng 12 năm 2023, Tây Nguyên bắt đầu vào mùa khô, giá điện bắt đầu có dấu hiệu tăng trở lại. Tuy nhiên, trong 2 tháng (tháng 10 và tháng 11) mức giá giảm sâu nên tính chung lại trong quý IV/2023 sản lượng điện tăng làm cho chỉ số giá nhóm ngành này giảm.
(4) Nhóm ngành nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải: giảm 0,38% so với quý trước và tăng 0,89% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chỉ số giá nước tự nhiên khai thác dùng cho sinh hoạt giảm 1,44% so với quý trước và tăng 3,57% so với cùng kỳ năm trước; giá nước sinh hoạt giảm so với quý trước do trong quý IV/2023 chủ yếu là mùa mưa ở Tây Nguyên, nhu cầu sử dụng nước giảm nên giá nước giảm; Chỉ số giá hoạt động thu gom, xử lý rác thải ổn định so với quý trước.
Dự báo tình hình biến động giá trong thời gian đến: Chỉ số giá các nhóm hàng nông, lâm, thủy sản tăng (giảm) chủ yếu theo quy luật cung cầu trên địa bàn tỉnh. Từ đầu năm 2023 đến nay, việc lưu thông hàng hóa giữa các địa phương trên cả nước khá thuận lợi nên tình hình biến động giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh cũng có phần ảnh hưởng bởi sự biến động giá chung của một số mặt hàng trên cả nước và các tỉnh lân cận, đặc biệt quý I năm 2024 là tháng nằm trong dịp tết Nguyên đán nên giá các mặt hàng Nông Lâm nghiệp và thuỷ sản dự báo sẽ tăng so với quý trước, tuy nhiên với việc đảm bảo lưu thông hàng hoá trên địa bàn tỉnh thì mức tăng sẽ không cao.
- Theo quy luật giá cả hàng năm thì quý I chỉ số giá công nghiệp dự báo sẽ tăng so với quý trước cụ thể như sau: Trong quý I năm 2024 là các tháng trong dịp tết Nguyên đán nên nhóm ngành khai khoáng và công nghiệp chế biến chế tạo bị tác động của tết Nguyên đán nên giá sẽ tăng; Riêng nhóm ngành điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí, nhóm ngành nước tự nhiên khai thác; dịch vụ quản lý và xử lý rác thải, nước thải do trong quý I hàng năm sẽ là mùa khô của Tây Nguyên, mức nước dự trữ trên các hồ, đập thuỷ lợi, thuỷ điện bắt đầu đi xuống nhu cầu sử dụng nước, điện tăng cao do đó dự báo chỉ số giá nhóm ngành này sẽ tăng so với quý trước tuy nhiên mức tăng sẽ chưa cao.
4. Đầu tư và xây dựng
Hoạt động đầu tư nói chung trên địa bàn tỉnh cơ bản được duy trì ổn định, có sự tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2023 ước tính tăng 16,86 % so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý năm 2023 tăng 37,19% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tín hiệu tích cực phản ánh kết quả việc thực hiện quyết liệt các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công nhằm duy trì đà tăng trưởng kinh tế .
4.1. Vốn đầu tư
a) Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn quý IV năm 2023 ước tính là 7.293,9 tỷ đồng, tăng 16,34% so với cùng kỳ năm trước. Bao gồm: Vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện là 2.067,7 tỷ đồng, tăng 16,33% so với cùng kỳ và chiếm 28,35% trong tổng nguồn vốn; Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực ngoài nhà nước là 5.224,2 tỷ đồng, tăng 16,30% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 72,67% trong tổng nguồn vốn; Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 2 tỷ đồng, chiếm 0,03% trong tổng nguồn vốn, chủ yếu thực hiện các khoản mục đầu tư mua sắm máy móc thiết bị không qua XDCB, bổ sung vốn lưu động và sửa chữa nâng cấp tài sản cố định của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh Kon Tum cả năm 2023 ước tính là 27.036 tỷ đồng, tăng 16,86% so với cùng kỳ năm trước.
- Phân theo nguồn vốn:
Vốn nhà nước trên địa bàn thực hiện là 6.561,6 tỷ đồng, tăng 11,04% so với cùng kỳ và chiếm 24,27% trong tổng nguồn vốn, trong đó: Vốn ngân sách nhà nước do trung ương quản lý là 1.432,2 tỷ đồng, nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý là 5.129 tỷ đồng, chủ yếu đầu tư phát triển các chương trình mục tiêu, xây dựng cơ sở hạ tầng về lĩnh vực thủy lợi, giao thông, giáo dục, y tế, ...
Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực ngoài nhà nước là 20.468,9 tỷ đồng, tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 76,13% trong tổng nguồn vốn, trong đó: Vốn đầu tư của doanh nghiệp là 12.056,7 tỷ đồng, vốn đầu tư của các hộ gia đình là 8.412,2 tỷ đồng, chủ yếu đầu tư của khu vực hộ dân cư trong xây dựng, sửa chữa nhà, chăn nuôi, ...
Nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 5,65 tỷ đồng, chiếm 0,02% trong tổng nguồn vốn, chủ yếu thực hiện các khoản mục đầu tư mua sắm máy móc thiết bị không qua XDCB, bổ sung vốn lưu động và sửa chữa nâng cấp tài sản cố định của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Phân theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư XDCB: 17.284 tỷ đồng, chiếm 63,93% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư mua sắm TSCĐ dùng cho sản xuất không qua XDCB: 4.696,187 tỷ đồng, chiếm 17,47% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư sửa chữa lớn, nâng cấp TSCĐ: 4.703,6 tỷ đồng, chiếm 17,49% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động 347,6 tỷ đồng, chiếm 1,29% trong tổng nguồn vốn; Vốn đầu tư khác: 4,7 tỷ đồng, chiếm 0,02% trong tổng nguồn vốn.
b) Tình hình thực hiện vốn đầu tư trên địa bàn thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn cả năm 2023
Ước vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trên địa bàn cả năm 2023 là 4.468,2 tỷ đồng, tăng 37,19% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý, Chia ra:
Vốn Ngân sách Nhà nước cấp tỉnh là 3.159,7 tỷ đồng, tăng 20,60% so với cùng kỳ và chiếm 70,71% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng về lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông, giáo dục, y tế, cấp nước sinh hoạt nông thôn, môi trường nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, các thôn đặc biệt khó khăn... Trong đó: Vốn cân đối ngân sách tỉnh là 1.143,5 tỷ đồng, chiếm 36,19%; Vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu là 1.824,3 tỷ đồng, chiếm 57,24%; Vốn ODA là 71,2 tỷ đồng, chiếm 2,25%; Vốn xổ số kiến thiết là 43,5 tỷ đồng, chiếm 1,38%; Vốn khác là 77,2 tỷ đồng, chiếm 2,44% trong tổng nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh.
Vốn Ngân sách Nhà nước cấp huyện là 1.308,5 tỷ đồng, tăng 105,39% so với cùng kỳ và chiếm 22,29% trong tổng số nguồn vốn, chủ yếu tập trung đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn như đường giao thông nông thôn, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa… trên địa bàn các huyện, thành phố thuộc tỉnh. Trong đó: Vốn cân đối Ngân sách huyện là 544,6 tỷ đồng, chiếm 42,39%; Vốn tỉnh hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu là 753,9 tỷ đồng, chiếm 57,61%.
Nhìn chung, trong năm 2023 tình hình triển khai thực hiện các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh chậm hơn so với kế hoạch vốn đã được giao. Cụ thể một số dự án trọng điểm như : Dự án nâng cấp mở rộng tỉnh lộ 671 do Sở Giao thông vận tải Kon Tum làm chủ đầu tư, dự án đường giao thông từ xã Đắk Pne, huyện Kon Rẫy đi huyện Kbang (tỉnh Gia Lai) do Uỷ ban nhân dân huyện Kon Rẫy làm chủ đầu tư, nguyên nhân do đền bù, giải phóng mặt bằng và thiếu nguyên vật liệu đắp đường.
c) Thu hút đầu tư trong và ngoài nước
- Nghị quyết của Tỉnh ủy về cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 được các cấp, các ngành triển khai quyết liệt. Đã chủ động làm việc với nhà đầu tư để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư nhằm đẩy nhanh tiến độ đầu tư trên địa bàn tỉnh thông qua việc duy trì Chương trình đối thoại với doanh nghiệp 02 lần/năm và chương trình cà phê doanh nhân định kỳ hằng tháng.
- Công tác phát triển doanh nghiệp và thu hút đầu tư tiếp tục được chú trọng. Theo đó, đã chỉ đạo, rà soát, điều chỉnh Danh mục dự án thu hút đầu tư vào tỉnh Kon Tum giai đoạn 2021-2025 đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế của các địa phương; chủ động cử các đoàn công tác của tỉnh đi học tập kinh nghiệm, đồng thời làm việc với các nhà đầu tư, doanh nghiệp để thu hút đầu tư vào tỉnh đối với những ngành mà tỉnh có tiềm năng, lợi thế và đã ký kết biên bản ghi nhớ với 03 đơn vị về hợp tác đầu tư gồm: Công ty cổ phần giấy An Hòa; Công ty cổ phần Sao Việt Tuyên Quang; Tổng Công ty Giấy Việt Nam. Kết quả, từ đầu năm đến nay đã thu hút 09 dự án đầu tư (ngoài khu công nghiệp, khu kinh tế) với tổng vốn đăng ký khoảng 1.560 tỷ đồng.
4.2. Xây dựng
Trong năm 2023, cùng với công tác xúc tiến, thu hút đầu tư; Tỉnh đã chỉ đạo, đôn đốc các chủ đầu tư, các đơn vị thi công tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình nhất là các công trình trọng điểm. Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư và tập trung nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xây dựng đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án trọng điểm của tỉnh. Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo triển khai quyết liệt các giải pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công; ban hành Kế hoạch số 1025/KH-UBND ngày 10 tháng 4 năm 2023 về kiểm tra, giám sát các chương trình, dự án đầu tư công trên địa bàn tỉnh Kon Tum năm 2023; tổ chức Hội nghị về xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh để kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, hướng dẫn các chủ đầu tư trong quá trình quản lý thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình. Trong năm 2023, các đơn vị hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh tiếp tục tích cực triển khai những công trình chuyển tiếp từ năm 2022 đồng thời khởi công nhiều công trình mới có vốn đầu tư cao. Những tháng đầu năm, tranh thủ thời tiết thuận lợi các hộ dân cư cũng tiến hành khởi công xây dựng nhà ở, nhà hàng, nhà nghỉ, sửa chữa nhà ở và các công trình liên quan (sân, tường rào, nhà kho, các công trình khác…); các đơn vị xã, phường, thị trấn cùng nhân dân thực hiện thi công các công trình nhà văn hóa, nhà rông, hội trường, nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, bê tông hóa các đường liên thôn, liên xã trong chương trình xây dựng nông thôn mới... Tình hình thực hiện giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng so với cùng kỳ. Tuy nhiên, việc giá cả nguyên liệu tăng cao đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động ngành xây lắp.
Giá trị sản xuất quý IV năm 2023 ngành xây dựng trên địa bàn tỉnh Kon Tum theo giá hiện hành ước đạt 5.867.152 triệu đồng, tăng 6,12% so với cùng kỳ năm trước.
- Giá trị sản xuất chia theo loại công trình: Công trình nhà ở: 1.453.925 triệu đồng, chiếm 24,78% trong tổng số và tăng 4,29% so với cùng kỳ năm trước; Công trình nhà không để ở: 212.160 triệu đồng, chiếm 3,62% trong tổng số và tăng 7,57% so với cùng kỳ năm trước; Công trình kỹ thuật dân dụng: 4.097.762 triệu đồng, chiếm 69,84% trong tổng số và tăng 6,42% so với cùng kỳ năm trước; Hoạt động xây dựng chuyên dụng: 103.304 triệu đồng, chiếm 1,76% trong tổng số và tăng 19,23% so với cùng kỳ năm trước.
Giá trị sản xuất năm 2023 ngành xây dựng trên địa bàn tỉnh Kon Tum theo giá hiện hành ước đạt 20.067.396 triệu đồng, tăng 8,60% so với cùng kỳ năm trước.
- Giá trị sản xuất chia theo loại công trình: Công trình nhà ở: 5.511.458 triệu đồng, chiếm 27,46% trong tổng số và tăng 3,18% so với cùng kỳ năm trước; Công trình nhà không để ở: 820.620 triệu đồng, chiếm 4,09% trong tổng số và tăng 5,04% so với cùng kỳ năm trước; Công trình kỹ thuật dân dụng: 13.423.985 triệu đồng, chiếm 66,89% trong tổng số và tăng 11,35% so với cùng kỳ năm trước; Hoạt động xây dựng chuyên dụng: 311.333 triệu đồng, chiếm 1,55% trong tổng số và tăng 4,10% so với cùng kỳ năm trước.
- Giá trị sản xuất năm 2023 tăng so với cùng kỳ năm trước tập trung ở khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước với các công trình trọng điểm về kỹ thuật dân dụng và nhà không để ở. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn sửa chữa, bảo dưỡng thường xuyên đường bộ Quốc lộ 14, 24, các tỉnh lộ...; thực hiện công trình đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, sửa chữa trường học, trạm y tế, trụ sở làm việc trên địa bàn các huyện, thành phố... Các loại hình kinh tế khác (hộ dân cư, xã/phường/thị trấn) hoạt động xây dựng chủ yếu do hộ dân cư đầu tư xây dựng nhà ở mới, sửa chữa nhà ở và các công trình liên quan (sân, tường rào, nhà kho, các công trình khác…); các đơn vị xã, phường, thị trấn cùng nhân dân thực hiện thi công các công trình nhà văn hóa, nhà rông, hội trường, nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, bê tông hóa các đường liên thôn, liên xã trong chương trình xây dựng nông thôn mới ...
Công trình trọng điểm thực hiện trong kỳ: Trong năm 2023, các đơn vị hoạt động xây dựng trên địa bàn tỉnh đã khởi công nhiều công trình mới đồng thời tiếp tục triển khai thi công các công trình trọng điểm chuyển tiếp từ năm 2022 có vốn đầu tư cao như:
- Công trình kỹ thuật dân dụng: Đường trục chính phía Tây thành phố Kon Tum; Đầu tư xây dựng cải tạo, nâng cấp Tỉnh lộ 676 nối huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum với các huyện Sơn Tây, Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi; Mở rộng, nâng cấp đường Trường Chinh, thành phố Kon Tum; Kè chống sạt lở dọc sông Đăk Bla; các công trình chỉnh trang đô thị thành phố Kon Tum; Khai thác quỹ đất phát triển kết cấu hạ tầng Đường bao khu dân cư phía Nam thành phố Kon Tum (đoạn từ đường Hồ Chí Minh đến cầu treo Kon Klor); Cơ sở hạ tầng khu Du lịch văn hóa Ngục Kon Tum, Nâng cấp tỉnh lộ 675; Nâng cấp tuyến đường Đăk Man - Đăk Blô huyện Đăk Glei; Đường từ trung tâm huyện Sa Thầy đi Nhà máy thủy điện Ialy; các công trình đường giao thông liên xã huyện Sa Thầy, thành phố Kon Tum .... Công trình thủy điện: Dự án Nhà máy Thủy điện Ialy mở rộng; Thủy điện Plei kần hạ; Thủy điện Nước Long 1; Xây lắp đường dây 22KV cấp điện thi công và điện truyền tải đấu nối Nhà máy thủy điện BoKo2 vào lưới điện Quốc gia ...
- Xây dựng công trình nhà không để ở: Nhà thi đấu tổng hợp tỉnh Kon Tum; Hội trường Tỉnh ủy, các phòng họp và Trụ sở làm việc các cơ quan tham mưu giúp việc Tỉnh ủy; Trụ sở làm việc của Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ban ngành và các hạng mục phụ trợ; Trụ sở làm việc các đơn vị sự nghiệp thuộc tỉnh; Kho lưu trữ chuyên dụng của tỉnh; Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh; Trụ sở Công an huyện Sa Thầy; Nhà văn hóa hữu nghị biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia; Xây dựng trường Lương Thế Vinh huyện Đăk Glei; Xây dựng trường THCS xã Đăk Long huyện Đăk Glei; Sửa chữa trường THPT dân tộc nội trú tỉnh; Nâng cấp, mở rộng trường Phổ thông dân tộc bán trú Trung học cơ sở Ngô Quyền huyện Ngọc Hồi ...
5. Doanh nghiệp
5.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong tháng 12 (tính đến 20/12/2023) toàn tỉnh có 30 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 82,1 tỷ đồng, tăng 57,89% về số doanh nghiệp và giảm 6,49% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2022. Có 06 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; 06 doanh nghiệp đã giải thể; 04 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động.
Tính chung 12 tháng năm 2023 (tính đến 20/12/2023) có 432 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 26,66% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký khoảng 2.989,9 tỷ đồng, giảm 48,52 % so với cùng kỳ. Có 98 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 25,76% so với cùng kỳ năm trước; 85 doanh nghiệp đã giải thể, giảm 3,41% so với cùng kỳ năm trước; 188 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, giảm 7,84% so với cùng kỳ năm trước.
5.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
(1) Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong Quý IV/2023 cho thấy: Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Quý IV năm 2023 nhìn chung tương đối thuận lợi, phần lớn các doanh nghiện đã vượt qua giai đoạn khó khăn, có 57,58% đơn vị có đánh giá tình hình tốt hơn quý trước; 27,27% đánh giá giữ nguyên và chỉ còn 15,15% đơn vị đánh giá tình hình có khó khăn hơn so quý trước. Trong đó các đơn vị đánh giá khó khăn hơn chủ yếu ở một số nhóm ngành như sản xuất tinh bột sắn, sản, chế biến gỗ. Trong quý tiếp theo, phần lớn các doanh nghiệp đều dự báo tình hình sản xuất sẽ tốt hơn, cụ thể tỷ lệ các doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất tốt hơn chiếm đến 45,45%, tỷ lệ đánh giá tình hình sản xuất giữ nguyên chiếm 39,39%, số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất khó khăn hơn vẫn còn 15,15%.
(2) Tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành xây dựng quý IV năm 2023 nhìn chung tương đối ổn định, trong đó số doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn chiếm 28,6%. Doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn chủ yếu là các doanh nghiệp đang có các công trình lớn trên địa bàn thực hiện chuyển tiếp của năm 2022 và các doanh nghiệp có khởi công công trình mới trong kỳ. Doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh không thay đổi chiếm 49,0%. Doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn hơn chiếm tỷ lệ 22,4%.
Nhận định về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý tiếp theo, phần lớn các doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất ngành xây dựng không thay đổi so với quý trước. Cụ thể tỷ lệ các doanh nghiệp đánh giá tình hình hoạt động xây dựng thuận lợi hơn chiếm 8,2%, số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất không đổi chiếm tỷ lệ 61,2%, tỷ lệ đánh giá tình hình sản xuất khó khăn hơn chiếm 30,6%.
Các đơn vị doanh nghiệp xây dựng đánh giá tổng thể về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý tiếp theo dựa trên cơ sở nhiều yếu tố. Trong đó, tổng chi phí cho hoạt động xây dựng là yếu tố quan trọng để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quý tiếp theo có 73,5% số doanh nghiệp đánh giá tổng chi phí không đổi hoặc tăng lên so với quý trước, tỷ lệ doanh nghiệp đánh giá chi mua nguyên vật liệu xây dựng không đổi hoặc tăng lên và chi phí nhân công không đổi hoặc tăng lên đều chiếm tỷ lệ 75,5%. Các doanh nghiệp đánh giá mức chi phí giảm xuống chủ yếu là những doanh nghiệp thực hiện nhiều công trình từ nguồn vốn đầu tư công nên quý đầu năm giải ngân ít hơn so với quý cuối năm.
Về tình hình sử dụng lao động: trong quý tiếp theo có 14,3% số doanh nghiệp nhận định nhu cầu sử dụng lao động tăng hơn so với quý trước. Doanh nghiệp nhận định số lao động thường xuyên tăng chiếm 4,1% và nhận định lao động thời vụ tăng chiếm 14,3%. Số doanh nghiệp nhận định nhu cầu sử dụng lao động không thay đổi so với quý trước chiếm tỷ lệ 55,1%; tỷ lệ doanh nghiệp nhận định số lao động thường xuyên không thay đổi chiếm 91,8% và số doanh nghiệp nhận định lao động thời vụ không thay đổi chiếm 51,0%. Có 30,6% doanh nghiệp nhận định nhu cầu sử dụng lao động giảm, trong đó tỷ lệ doanh nghiệp có lao động thường xuyên giảm chiếm 4,1%, doanh nghiệp có lao động thời vụ giảm chiếm 34,7%.
Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quý IV năm 2023 là không có hợp đồng xây dựng mới, không biết đến thông tin đấu thầu, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hạn chế và thiếu nguồn cung về nguyên vật liệu. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp trong quý tiếp theo nhiều nhất là không có hợp đồng xây dựng mới (chiếm 65,3%), không biết đến thông tin đấu thầu (chiếm 30,6%), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hạn chế (chiếm 30,6%), thiếu nguồn cung nguyên vật liệu xây dựng (chiếm 12,2%). Về mong muốn được nhận hỗ trợ của doanh nghiệp: 67,3% doanh nghiệp muốn được hỗ trợ nguyên vật liệu; 44,9% doanh nghiệp mong muốn thông tin đấu thầu công khai, minh bạch; 32,7% mong muốn có chế tài xử phạt chủ đầu tư chậm thanh quyết toán nợ đọng xây dựng cơ bản; 24,5% doanh nghiệp cần được bàn giao mặt bằng đúng tiến độ.
6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
Trong năm 2023, tình hình thới tiết trên địa bàn tỉnh so với năm trước có mưa nhiều, lượng mưa trải đều các tháng đã làm cho lượng nước ở các sông, suối, hồ, đập thủy điện tăng. Các công trình hồ, đập thủy điện đã được đầu tư kiên cố, cơ bản đáp ứng đủ nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Chính vì vậy, mà nguồn nước dự trữ cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản năm 2023 đã đáp ứng được yêu cầu, tạo thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Cụ thể, diễn biến sản xuất Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản ước tính tháng 12 và cả năm 2023 so cùng kỳ năm trước, như sau:
6.1. Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp năm 2023 cơ bản tương đối ổn định, năng suất lúa và một số cây trồng khác tăng nhẹ so với năm trước; sản lượng một số loại cây lâu năm tăng nhẹ, giá thành sản phẩm một số loại như cà phê, sầu riêng … tăng so với năm trước nên người dân phấn khởi yên tâm đầu tư, chăm sóc cây trồng cho năm tiếp theo.
6.1.1. Trồng trọt
Tình hình sản xuất cây hàng năm vụ đông xuân 2023 - 2024
Ước tính đến thời điểm ngày 15/12/2023, tổng diện tích gieo trồng (DTGT) cây hàng năm vụ Đông xuân 2023-2024 tỉnh Kon Tum là: 1.780 ha, tăng 31,01% (+421,7 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó DT lúa đã gieo trồng là: 561 ha, tăng 91,47% (+268,1 ha). Tăng chủ yếu ở huyện Đắk Hà, Đắk Glei do điều kiện thời tiết thuận lợi người dân thu hoạch lúa vụ mùa sớm nên xuống giống vụ đông xuân sớm. Các loại cây khác đã gieo trồng được: 37 ha ngô; 744 ha rau các loại; 17 ha đậu các loại; 109 ha hoa các loại; 5 ha khoai lang ...
Hiện nay, bà con nông dân đang tiến hành cải tạo đất và chuẩn bị đất gieo trồng vụ đông xuân 2023 - 2024 cho kịp thời vụ và tránh khi xuống giống bị ảnh hưởng không khí lạnh. Đối với diện tích đã được gieo trồng, lượng nước tưới đảm bảo, phát triển tốt, chưa có hiện tượng thiếu nước và sâu bệnh xảy ra.
Tình hình sản xuất cây hàng năm năm 2023
Năm 2023 tỉnh Kon Tum gieo trồng được 76.148 ha cây trồng hàng năm, giảm 0,8% (-598,9 ha) so với chính thức năm trước. Trong đó:
a) Cây lúa
Vụ Đông xuân 2022-2023, DTGT đạt 7.293,38 ha, tăng 0,22% (+15,74 ha). Diện tích tăng do đầu mùa thời tiết tương đối thuận lợi, nguồn nước dồi dào nên người dân tận dụng gieo cấy hết diện tích.
Vụ mùa, DTGT đạt 15.436,34 ha, giảm 1,07% (-166,8 ha). Trong đó: Cây lúa ruộng diện tích đạt: 12.604,54 ha, giảm 0,08% (-9,55 ha); Cây lúa rẫy diện tích đạt: 2.831,8 ha, giảm 5,26% (-157,25 ha), diện tích lúa rẫy giảm chủ yếu ở huyện Ngọc Hồi, Kon Rẫy, Tu Mơ Rông. Cây lúa rẫy giảm do hiệu quả kinh tế không cao nên người dân chuyển sang trồng các loại cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn như: cây ăn quả, dược liệu …
Năng suất lúa cả năm đạt: 44,11 tạ/ha, tăng 3,88%; Sản lượng lúa đạt: 100.260,79 tấn, tăng 3,2% (+3.107,77 tấn) so với năm trước. Năm nay người dân chuyển sang trồng một số giống lúa mới cho năng suất cao như khang dân đột biến, tám thơm đột biến và đầu tư chăm sóc tốt nên năng suất lúa tăng.
b) Cây trồng khác năm 2023
Cây ngô DTGT đạt 5.036,5 ha, giảm 4,19% (-220,26 ha); Diện tích Ngô giảm do những năm gần dây giá ngô thấp nên người dân chuyển đổi sang cây trồng các loại cây khác như mía, dược liệu ...
Cây sắn DTGT đạt: 39.283,7 ha, giảm 2,3% (- 925,1 ha). Diện tích giảm là do đất trồng sắn lâu năm bạc màu nên người dân cải tạo đất để chuyển đổi sang trồng các loại cây khác như cây ăn quả, dược liệu...
Cây mía DTGT đạt: 1.219,48 ha, tăng 26,89% (+258,4 ha). Diện tích tăng chủ yếu ở thành phố Kon Tum, Đak Tô, Kon Rẫy do nhà máy đường kết hợp với người dân tăng diện tích gieo trồng.
Rau các loại DTGT đạt: 3.087,5 ha, tăng 6,6% (+ 191,03 ha). Diện tích tăng là do nhu cầu thị trường tăng nên người dân và doanh nghiệp mở rộng diện tích gieo trồng.
Các loại cây hàng năm khác DTGT đạt: 3.062,99 ha, tăng 6,58% (+189,06 ha) so với năm trước. DTGT các loại cây hàng năm khác tăng do người dân chuyển đổi một số cây trồng trên đất có hiệu quả kinh tế thấp như lúa rẫy, ngô sang trồng cây dược liệu hàng năm như Sâm dây, Đương quy ....
Về năng suất, sản lượng:
Năng suất ngô đạt: 43 tạ/ha, tăng 2,2%; Sản lượng đạt: 21.656,95 tấn, giảm 2,08% (-460,02 tấn) so với năm trước. Sản lượng Ngô giảm là do diện tích gieo trồng Ngô giảm.
Năng suất sắn đạt: 157,17 tạ/ha, tăng 3,24%; sản lượng đạt: 617.438,17 tấn, tăng 0,87%. Năng suất sắn tăng là do thời tiết thuận lợi, người dân đầu tư chăm sóc tốt và một số địa phương chuyển đổi trồng giống sắn Siêu củ nên năng suất tăng.
Năng suất mía đạt: 554,6 tạ/ha, tăng 0,27%; sản lượng đạt: 67.632,26 tấn, tăng 27,23% (+ 14.474,06). Sản lượng tăng là do năng suất và diện tích gieo trồng tăng cao.
Năng suất rau các loại đạt 132,96 tạ/ha, tăng 0,79%; sản lượng đạt: 41.052,35 tấn, tăng 7,43% (+2.840,06 tấn). Sản lượng do DTGT tăng.
Nhìn chung năng suất, sản lượng của các loại cây đều tăng do năng suất Vụ mùa tăng. Năng suất tăng do nguời dân chuyển đổi sang các loại giống mới cho năng suất cao, mặt khác các loại sâu bệnh xuất hiện được phòng trừ kịp thời; ngoài ra cùng với sự quan tâm, chỉ đạo và thường xuyên hướng dẫn các nghiệp vụ sản xuất trồng trọt của các sở, ngành đến người dân nên kết quả sản xuất cây trồng hàng năm năm 2023 tăng so với năm trước.
c) Cây lâu năm năm 2023
Tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh năm 2023 hiện có 130.169 ha, tăng 6,24% (+7.645,6 ha) so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: diện tích cây ăn quả 14.030,8 ha, tăng 46,23% (+4.435,7 ha); diện tích cây lấy quả chứa dầu 79 ha, tăng 6,32% (+4,7 ha); diện tích điều 1.711,8 ha, giảm 1,62% (-28,2 ha); diện tích hồ tiêu 339,6 ha, tăng 2,95% (9,7 ha); diện tích cao su 79.018,4 ha, tăng 1,91% (+1.477,3 ha); diện tích cây cà phê 29.812,7 ha, tăng 2,35% (+685,4 ha); diện tích cây chè 142 ha, tăng 56,35% (+51,2 ha); cây gia vị, cây dược liệu lâu năm 4.628,9 ha, tăng 26,96% (+983 ha); diện tích cây lâu năm khác 403,7 ha, tăng 6,43% (+24,4 ha).
Cây ăn quả có diện tích tăng cao so với cùng kỳ năm trước là do các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục đầu tư trồng cây ăn quả kết hợp du lịch trang trại; đồng thời, có sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân các huyện về trồng cây ăn quả chất lượng cao trong dân cư, đặc biệt là cây mắc ca, sầu riêng, mít... và cây dược liệu; các loại cây ăn quả năm trước hiệu quả kinh tế không cao người dân đã phá bỏ trồng lại các loại cây ăn quả mới.
Cả năm, sản lượng xoài đạt 1.505 tấn, tăng 6,7%; chuối, sản lượng đạt 17.380 tấn, tăng 8,8%; thanh long, sản lượng đạt 325 tấn, tăng 10,2%; sản lượng dứa đạt 1.251 tấn, tăng 9,2%; cam, sản lượng 3.382 tấn, tăng 4,7%; sản lượng bưởi 570 tấn, tăng 7,6%.
Diện tích cây điều hiện có 1.711,8 ha, giảm 1,62% (-28,2 ha) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng thu hoạch 885 tấn, tăng 5,33% (+44,8 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Diện tích cây hồ tiêu hiện có 339,6 ha, tăng 2,95% (9,7 ha) so với cùng kỳ năm trước; Sản lượng thu hoạch 520 tấn, tăng 1,34% (+6,9 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Diện tích cây cao su hiện có 79.018,4 ha, tăng 1,91% (+1.477,3 ha) so với cùng kỳ năm trước, đây là nhóm cây có tỷ trọng diện tích lớn nhất trong tổng diện tích cây lâu năm toàn tỉnh. Cao su là loại cây công nghiệp chủ lực, mang lại hiệu quả kinh tế cao, những nơi có diện tích cao su lớn như Sa Thầy, Ia H’Drai, diện tích cao su tăng do người dân trồng lại trên các diện tích cây đã chặt bỏ những năm trước. Sản lượng thu hoạch cao su 91.900 tấn, tăng 6,33% (+5.468,8 tấn) so với cùng kỳ năm trước, sản lượng cao su tăng là do giá bán mũ cao su năm nay ổn định hơn năm trước nên đã khuyến khích người dân tăng cường đầu tư khai thác.
Diện tích cây cà phê hiện có 29.812,7 ha, tăng 2,35% (+685,4 ha); Sản lượng thu hoạch cà phê 66.300 tấn, tăng 6,17% (+3.855,3 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
1.1.2. Chăn nuôi
Hoạt động Chăn nuôi được các ngành chức năng quan tâm đầu tư mở rộng, chăn nuôi gia cầm đạt kết quả tích cực; dịch bệnh trên vật nuôi được phòng, chống và xử lý kịp thời.
a) Tình hình chăn nuôi
Năm 2023 tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định. Trong đó, chăn nuôi trâu, bò tăng nhẹ so với năm trước; Chăn nuôi lợn, gia cầm phát triển mạnh theo hướng tập trung, qui mô lớn. Giá lợn giống đã giảm nhiều, trong khi giá thịt lợn hơi xuất chuồng tăng lên đáng kể so với cùng kỳ năm trước, nên đàn lợn phục hồi mạnh. Đàn gia cầm phát triển mạnh để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trên thị trường.
Sản lượng chăn nuôi năm 2023 tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước chủ yếu là do tái đàn lợn (tăng số con lợn thịt) và tăng đàn gia cầm (năm 2023 số con gia cầm một hộ chăn nuôi gia cầm tăng dẫn đến đàn gia cầm tăng).
Tổng đàn trâu hiện có 24.100 con, tăng 0,6% (+147 con) so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng năm 2023 là 3.090 con, tăng 2,83% (+85 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 792 tấn, tăng 2,92% (+23 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn bò hiện có 85.120 con, tăng 1,31% (+1.103 con) so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng là 33.200 con, tăng 3,66% (+1.172 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 5.514 tấn, tăng 3,57% (+190 tấn) so với cùng kỳ năm trước.
Tổng đàn lợn hiện có 175.035 con, tăng 10,9% (+17.200 con) so với cùng kỳ năm trước. Số con xuất chuồng là 299.050 con, tăng 5,8% (+16.398 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng là 23.100 tấn, tăng 5,75% (+1.256 tấn) so với cùng kỳ năm trước. Số lượng và sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước chủ yếu là do tái đàn lợn (tăng số con lợn thịt), trong kỳ đã có nhiều dự án chăn nuôi lợn đầu tư bắt đầu hoạt động, mặt khác, trong kỳ dịch tả lợn châu phi tuy có xảy ra nhưng đã giảm sâu so với cùng kỳ năm trước nên người dân tranh thủ tái đàn.
Tổng đàn gia cầm 2.083.080 con, tăng 5,4% (+106.610 con) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: đàn gà 1.832.000 con, tăng 5,6% (+97.520 con) so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thịt hơi gia cầm xuất chuồng 6.153,2 tấn, tăng 5,3% (+310,76 tấn) so với năm trước. Trong đó: sản lượng thịt hơi gà xuất chuồng 5.565,3 tấn, tăng 5,22% (+276,11 tấn). Tổng đàn gà tăng cả về số lượng đầu con và sản phẩm là do nhu cầu của người dân tăng và trong kỳ dịch bệnh xảy ra ít, nên hộ chăn nuôi đã tăng đầu tư, chăm sóc tốt cho đàn gà. Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh phát triển thêm nhiều cơ sở chăn nuôi gà với quy mô lớn.
b) Tình hình dịch bệnh
Từ ngày 26/11/2023 đến ngày 03/12/2023 trên địa bàn tỉnh Kon Tum xảy ra 03 ổ dịch bệnh Dịch tả lợn Châu phi với tổng số 327 con mắc bệnh và tiêu hủy tại huyện Đắk Glei và thành phố Kon Tum. Lũy kế từ đầu năm đến nay trên địa tỉnh xảy ra 08 ổ dịch bệnh Dịch tả lợn Châu phi với tổng số lợn mắc bệnh phải tiêu hủy 427 con tại 28 hộ chăn nuôi tại các huyện: Đăk Tô, Sa Thầy, Ia H'Drai, Kon Plông, Đăk Glei và thành phố Kon Tum. Các địa phương đã tổ chức tiêu hủy toàn bộ số lợn mắc bệnh đồng thời tổ chức khử trùng tiêu độc xử lý ổ dịch theo đúng quy định.
Trong năm 2023, trên địa bàn tỉnh Kon Tum không phát sinh các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như Lở mồm long móng, cúm gia cầm, viêm da nổi cục, dại chó mèo, tai xanh ở lợn...
1.2. Lâm nghiệp
Hoạt động Lâm nghiệp được UBND tỉnh đặc biệt quan tâm triển khai nhiều giải pháp tích cực; tuyên truyền, chỉ đạo các cơ quan chức năng liên quan tăng cường công tác bảo vệ rừng và nâng cao nhận thức của người dân đã góp phần ngăn chặn kịp thời và làm giảm đáng kể số vụ vi phạm lâm luật.
Trong năm 2023, Ngành Kiểm lâm tăng cường phối hợp với các ngành, các địa phương thực hiện nghiêm túc công tác quản lý, bảo vệ rừng, tiếp tục tổ chức các đợt truy quét, phối hợp tuần tra bảo vệ rừng. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân góp phần ngăn chặn kịp thời và làm giảm đáng kể số vụ vi phạm lâm luật.
Tính đến 15/12/2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 19 vụ phá rừng trái pháp luật với diện tích thiệt hại là 4,79 ha. Các cơ quan chức năng đang tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.
Ước tính đến thời điểm 31/12/2023, tổng diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 4.983,7 ha, giảm 6,8% (- 366 ha) so với năm trước. Diện tích rừng trồng mới giảm là do kế hoạch trồng rừng mới của tỉnh năm trước tăng cao.
Công tác khai thác lâm sản: ước tính đến ngày 31/12/2023, trên địa bàn tỉnh tổng lượng gỗ khai thác các loại đạt 161.113 m3, tăng 2,1% (+83.366 m3) so với năm trước; Lượng củi khai thác đạt 285.580 ster, tăng 3,3% (+9.002,9 ster) so với năm trước. Sản lượng gỗ và củi tăng là do nhu cầu thị trường tăng nên doanh nghiệp và người dân tăng sản lượng khai thác.
1.3. Thuỷ sản
Hoạt động nuôi trồng Thủy sản được Nhân dân đầu tư phát triển, diện tích nuôi trồng tăng so với năm trước. Trong năm lượng mưa nhiều làm cho lượng nước sông, suối, đập thủy điện được mở rộng, tạo điều kiện cho hoạt động nuôi trồng nên sản lượng nuôi trồng tăng so với năm trước.
Trong thời gian qua, hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn tỉnh luôn được chú trọng; Ngành nông nghiệp tỉnh tiếp tục khuyến khích người dân nuôi trồng thuỷ sản chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, tuyên truyền, vận động người nuôi chọn giống đạt chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả, đảm bảo chất lượng đầu ra cho sản phẩm.
- Ước tính diện tích nuôi trồng thủy sản đến 31/12/2023 là 934 ha, tăng 11,06% (+93 ha), so với cùng kỳ năm trước, diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng so với năm trước là do một số năm gần đây giá thuỷ sản tăng, bên cạnh đó tình hình dịch bệnh không xảy ra nên người dân yên tâm và tăng đầu tư.
- Sản lượng thủy sản năm 2023 tỉnh Kon Tum đạt 8.158 tấn, tăng 14,46% (+1.030,92 tấn) so với năm trước. Trong đó: Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 2.136 tấn, chiếm 26,21%; Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 6.022 tấn, chiếm 73,79%.
+ Sản lượng khai thác thủy sản : Sản lượng khai thác thủy sản nước ngọt là 2.136 tấn, giảm 1,14% (-24,6 tấn) so với năm trước. Sản lượng thuỷ sản khai thác giảm là do các đơn vị đấu thầu các đập, hồ thuỷ điện, thuỷ lợi trên địa bàn không thả giống thuỷ sản nhằm tăng nguồn lợi thuỷ sản để khai thác mà triển khai vây nuôi trên một số diện tích nên sản lượng khai thác giảm nhưng tỷ lệ giảm không lớn, cụ thể sản lượng một số loại thuỷ sản khai thác trên địa bàn tỉnh như sau: Cá rô đồng 87,2 tấn tăng 11,08% (+8,7 tấn); Cá lóc (Cá quả) 156,7 tấn tăng 4,33% (+6,5 tấn); Cá trắm 117 tấn giảm 14,47% (-19,8 tấn); Cá chép 213 tấn giảm 0,09% (-0,20 tấn); Cá rô phi 433,3 tấn giảm 3,22% (-1 tấn).
+ Sản lượng nuôi trồng thủy sản: Sản lượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt là 6.022 tấn, tăng 21,25% (+1.055,51 tấn) so với năm trước, Cụ thể sản lượng một số loại thuỷ sản nuôi trồng trên địa bàn tỉnh tăng cao như sau: Cá rô phi sản lượng là 2.679,3 tấn, tăng 17,36% (+396,3 tấn); Cá trắm sản lượng là 1.876,7 tấn, tăng 31,52% (+449,82 tấn); Cá chép 328 tấn, tăng 81,71% (+147,49 tấn); Các loại cá khác có biến động tăng giảm, tuy nhiên sản lượng không lớn.
Nhìn chung sản lượng nuôi trồng tăng chủ yếu là do diện tích nuôi trồng tăng (tăng 11,06%, tăng 93 ha), bên cạnh đó số lượng lồng\bè trên địa bàn cũng tăng nhanh (thể tích lồng bè tăng khoảng 30%, tăng 3.000m3; nuôi bể bồn năm 2022 chỉ nuôi trong 6 tháng cuối năm, đến năm 2023 đã triển khai nuôi cả năm với thể tích nuôi 9.000 m3). Một số loại thuỷ sản có số lượng tăng đột biến chủ yếu do người dân và doanh nghiệp trên địa bàn chuyển từ nuôi các loại thuỷ sản khác sang nuôi các giống thuỷ sản phù hợp với khí hậu và nguồn nước
7. Sản xuất công nghiệp
Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong tháng 12 và 12 tháng năm 2023 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước, hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 12 ước tính tăng 5,27% so với tháng trước và tăng 12,28% % so với cùng kỳ năm trước; quý IV/2023, chỉ số IIP tăng 9,06% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,91% so với năm 2022, trong đó ngành khai khoáng tăng 9,7%; ngành chế biến, chế tạo tăng 6,72%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,77%; ngành cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăn 6,83%.
7.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 12 năm 2023 ước tính tăng 12,28% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 6,76%, hiện tại nhiều công trình xây dựng đang đẩy nhanh tiến độ thi công trong các tháng cuối năm, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng nên các đơn vị tăng sản lượng khai thác; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,36%; đối với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đến thời điểm hiện tại đa số các doanh nghiệp đều sản xuất ổn định và có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 14,60% do năm nay thời tiết trên địa bàn tỉnh mưa nhiều, mùa mưa kết thúc chậm, mặt dù đã chuyển sang mùa khô nhưng lượng nước trên các hồ chứa luôn đảm bảo cho các nhà máy thủy điện hoạt động hết công suất và ngành điện luôn điều tiết tăng sản lượng điện sản xuất; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,7%.
So với tháng trước chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 12/2023 ước tính tăng 5,27%. Trong đó tăng cao nhất ở ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (tăng 17,52%) chủ yếu tăng ở ngành chế biến thực phẩm (tăng 33,38%). Đến tháng 12 Công ty Cổ phần Đường Kon Tum đã bắt đầu thu mua nguyên liệu và hoạt động sản xuất trở lại, lượng đường sản xuất tăng cao, bên cạnh đó các nhà máy sản xuất tinh bột sắn trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định. Hiện tại trên địa bàn tỉnh đang trong chính vụ thu hoạch mì, nguồn cung cấp nguyên liệu đảm bảo cho các nhà máy tinh bột sắn hoạt động hết công suất, lượng tinh bột sắn sản xuất tăng cao so tháng trước; Ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 8,45% do nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi của các doanh nghiệp xây dựng tăng trong các tháng cuối năm; Ngành sản xuất, phân phối điện tăng 1,05%, chủ yếu do kế hoạch điều tiết sản xuất của ngành điện; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,19% so tháng trước.
Chỉ số sản xuất công nghiệp Quý IV năm 2023 ước tính tăng 9,06% so cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai thác khoáng sản tăng 8,37%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,68%, trong đó tăng chủ yếu ở một số ngành như chế biến gỗ, sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại, sản phẩm từ kim loại đúc sẵn... do thị trường tiêu thụ ổn định; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,83%, do năm nay thời tiết trên địa bàn tỉnh mưa nhiều, mùa mưa kết thúc chậm, mặt dù đã chuyển sang mùa khô nhưng lượng nước trên các hồ chứa luôn đảm bảo cho các nhà máy thủy điện hoạt động hết công suất; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,76%.
Tính chung cả năm chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2023 ước tính tăng 8,91% so năm trước. Trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 9,7% nguyên nhân ngay từ đầu năm trên địa bàn tỉnh nhiều công trình xây dựng đã và đang triển khai thi công, nhu cầu tiêu thụ đá, cát sỏi tăng cao nên các đơn vị tăng sản lượng khai thác. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,72%, trong đó tăng chủ yếu ở một số ngành như sản xuất tinh bột sắn, sản xuất các sản phẩm từ khoáng phi kim loại, chế biến gỗ… do nguồn cung cấp nguyên liệu đảm bảo và thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,77%, trong năm 2023 thời tiết trên địa bàn tỉnh tương đối thuận lợi, mưa nhiều, lượng nước trên các hồ chứa luôn đảm bảo cho các nhà máy hoạt động ổn định nên sản lượng điện tăng cao. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,83% với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất năm 2023 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng so với cùng kỳ năm trước: Khai khoáng khác tăng 9,7%; Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 7,10%; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 11,46%; Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế), sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện tăng 10,35%; In, sao chép bản ghi các loại tăng 19,39%; Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 5,79%; Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 9,14%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 9,25%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 6,30%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,77%; Khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 4,60%. Ở chiều ngược lại, ngành công nghiệp có chỉ số sản xuất giảm: Sản xuất trang phục giảm 0,28%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 5,71% ...
7.2. Sản phẩm chủ yếu ngành công nghiệp
Ước tính một số sản phẩm sản xuất Quý IV năm 2023 so với cùng kỳ năm trước như sau: Đá xây dựng khai thác 152.858 m3, tăng 6,59%; Tinh bột sắn ước tính sản xuất 113.275,5 tấn, tăng 1,24%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 68.343,8 triệu viên, giảm 0,69%; điện sản xuất 1.128,6 triệu Kwh, tăng 10,72%.
Tính chung cả năm 2023 một số sản phẩm chủ yếu có sản lượng tăng so với cùng kỳ năm trước như sau: Điện sản xuất đạt 3.049,4 triệu Kwh tăng 9,36%; Đá xây dựng khai thác 436.824m3, tăng 9,62%; Tinh bột sắn đạt 263.361 tấn tăng 6,10%; Đường RE đạt 11.820 tấn, tăng 3,68%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) đạt 30.360 m3, tăng 10,35%; Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) đạt 191,4 triệu trang tăng 19,39%; Cồn béo công nghiệp đạt 9.144 tấn tăng 6,03%; Phân vi sinh đạt 1.092 tấn tăng 3,3%; Gạch xây dựng bằng đất sét nung (trừ gốm, sứ) quy chuẩn đạt 205.825 triệu viên, tăng 3,45%; Ngói, phiến đá lát đường và các sản phẩm tương tự bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 284,5 nghìn viên, tăng 26,84%; Cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo đạt 25.529 tấn, tăng 12,75%; Ghế khác có khung bằng gỗ đạt 270.751 chiếc, tăng 4,92%; Bàn bằng gỗ các loại đạt 115.218 chiếc, tăng 11,28%... Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu có sản lượng giảm so với cùng kỳ năm trước: Bộ com-lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc đạt 1.782 ngàn cái, giảm 4,80%; Sản phẩm khác bằng cao su lưu hoá trừ cao su cứng chưa phân vào đâu đạt 2.031 tấn, giảm 5,71%...
7.3. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp
Chỉ số sử dụng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm cuối tháng Mười Hai ước tính tăng 0,07% so với tháng trước và tăng 2,01% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2023, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 2,50% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước tăng 12,24%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 2,67%. Chia theo ngành kinh tế, lao động đang làm việc trong ngành Khai khoáng tăng 4,97%; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,58%; Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 3,99%; Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 3,65% so với cùng kỳ năm trước.
7.4. Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 12 năm 2023 tăng 17,57% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung tình hình tiêu thụ sản phẩm trong tháng tương đối thuận lợi, hầu hết các nhóm ngành đều có chỉ số tiêu thụ tăng.
7.5. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính đến thời điểm 31/12/2023 giảm 18,46% so với cùng thời điểm năm trước. Hiện tại các doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất ổn định, lượng sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ hết nên chỉ số tồn kho giảm.
Tình hình hoạt động sản xuất ngành công nghiệp của các đơn vị, cơ sở trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong năm 2023 tương đối ổn định và có mức tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước (chỉ số chung tăng 8,91%), hầu hết các ngành sản xuất đều có chỉ số sản xuất tăng. Đối với ngành công nghiệp chế biến chế tạo mặc dù chịu tác động bởi khó khăn của tình tình kinh tế trong và ngoài nước song các đơn vị, cơ sở sản xuất công nghiệp vẫn duy trì hoạt động ổn định, một số nhóm ngành tăng cao như ngành chế biến thực phẩm, sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại...do nguồn nguyên liệu đảm bảo và tình hình tiêu thụ sản phẩm ổn đinh. Ngành sản xuất, phân phối điện có chỉ số sản xuất tăng do thời tiết trên địa bàn tỉnh từ đầu năm đến nay tương đối thuận lợi, mùa mưa kéo dài, lượng nước trên các hồ chứa luôn đảm bảo cho các nhà máy thủy điện hoạt động ổn định nên sản lượng điện sản xuất tăng so cùng kỳ. Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải hoạt động ổn định trong các tháng.
8. Thương mại, dịch vụ
8.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ
Hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh khá sôi động. Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tháng 12 năm 2023 tăng so với tháng trước là do tình hình kinh doanh trên địa bàn tỉnh thuận lợi hơn tháng trước về mặt thời tiết, hệ thống các siêu thị thực hiện nhiều chương trình khuyến mãi, nhiều sản phẩm với giá hấp dẫn. Đồng thời, trong tháng 12 trên địa bàn toàn tỉnh đã diễn ra nhiều hoạt động du lịch, thương mại nhằm quảng bá ẩm thực Tây Nguyên, là cơ hội để quảng bá thương hiệu, sản phẩm, dịch vụ, mở rộng phát triển thị trường, phục vụ nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của Nhân dân về các sản phẩm OCOP trên địa bàn của tỉnh, như: Hội chợ sản phẩm của Thanh niên Kon Tum năm 2023, Chợ phiên dược liệu, gia súc và các sản phẩm OCOP huyện Đăk Glei năm 2023, nằm trong chuỗi hoạt động của “Chợ phiên dược liệu, gia súc và các sản phẩm OCOP huyện Đăk Glei năm 2023”, huyện Tu Mơ Rông tổ chức “Hội thi ẩm thực dược liệu - tinh hoa núi rừng Ngọc Linh” … .Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng Mười Hai trên địa bàn tỉnh ước tính tăng 2,25% so với tháng trước và tăng 21,19% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2023, ước tính tăng 17,27% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh ước tháng 12 năm 2023 đạt 2.924,88 tỷ đồng, tăng 2,25% so với tháng trước và tăng 21,19% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 2.460,05 tỷ đồng, chiếm 84,11% trong tổng số, tăng 1,93% so với tháng trước và tăng 18,61% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 291,37 tỷ đồng, chiếm 10,00% trong tổng số, tăng 2,88% so với tháng trước và tăng 43,27% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 172,45 tỷ đồng, chiếm 5,9% trong tổng số, tăng 5,9% so với tháng trước và tăng 27,44% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Quý IV ước tính đạt 8.699,23 tỷ đồng, tăng 19,71% so với cùng kỳ năm trước.
Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 7.273,99 tỷ đồng, chiếm 83,62% trong tổng số, tăng 16,91% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch đạt 857,89 tỷ đồng, chiếm 9,86% trong tổng số, tăng 44,23% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ khác đạt 567,24 tỷ đồng, chiếm 6,52% trong tổng số tăng 25,48% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung cả năm tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh cả năm 2023 ước tính đạt 34.184,24 tỷ đồng, tăng 17,27% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu bán lẻ hàng hóa năm 2023 ước đạt 28.618,34 tỷ đồng, chiếm 83,72% trong tổng số, tăng 15,01% so với cùng kỳ năm trước. Đa số các nhóm hàng hóa có doanh thu tăng so với cùng kỳ năm trước: Nhóm hàng lương thực, thực phẩm, tăng 18,15%; Hàng may mặc, tăng 7,96%; Đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình, tăng 9,22%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục, tăng 13,33%; Gỗ và vật liệu xây dựng, tăng 19,32%; Ô tô con (dưới 9 chỗ ngồi), tăng 15,29%; Phương tiện đi lại, trừ ô tô con (kể cả phụ tùng), tăng 20,09%; Xăng, dầu các loại, tăng 2,29%; Nhiên liệu khác (trừ xăng dầu), tăng 14,20%; Đá quý, kim loại quý và sản phẩm, tăng 16,50%; Hàng hoá khác, tăng 11,95%; Doanh thu dịch vụ sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác, tăng 19,88%.
- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch năm 2023 ước đạt 3.404,71 tỷ đồng, chiếm 9,96% trong tổng số, tăng 34,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 206,20 tỷ đồng, tăng 70,92%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 3.195,81 tỷ đồng, tăng 32,67%; doanh thu dịch vụ du lịch lữ hành và các dịch vụ hỗ trợ đạt 2,706 tỷ đồng tăng 43,19% so với cùng kỳ năm 2023 .
- Doanh thu dịch vụ khác năm 2023 ước đạt 2.161 tỷ đồng, chiếm 6,32% trong tổng số tăng 24,53% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó một số dịch vụ có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước phải kể đến như: Dịch vụ giáo dục và đào tạo tăng 20,20%; Dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí tăng 28,6%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hổ trợ tăng 14,4%; Dịch vụ y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 20,9%...
Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ trên địa bàn tỉnh ước tính năm 2023 tăng so với năm trước là do tình hình kinh doanh, sản xuất các ngành trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định, thu nhập của người dân trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định, thị trường hàng hóa tương đối ổn định, nguồn cung hàng hóa cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng, giá hàng hóa không có biến động lớn, lưu thông hàng hóa trên thị trường thuận lợi. Một số doanh nghiệp kinh doanh thương mại triển khai các chương trình khuyến mại đối với một số mặt hàng, nhằm kích thích lượng tiêu dùng cũng như sức mua của người dân; Giá cả các mặt hàng tương đối ổn định và phù hợp với thu nhập của số đông người tiêu dùng nên sức mua tăng. Việc điều chỉnh tăng lương cơ sở từ 01/7/2023 cho 9 nhóm đối tượng cũng có tác động tích cực đối với tiêu dùng và việc điều chỉnh tăng giá nguyên liệu xăng, dầu, nhiên liệu khác trong tháng đã góp phần làm tăng doanh thu nhóm ngành tổng mức bán lẻ trên địa bàn tỉnh; Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành tiếp tục duy trì xu hướng tích cực.
Nhìn chung tình hình kinh doanh, sản xuất các ngành thương mại dịch vụ năm 2023 trên địa bàn tỉnh Kon Tum, hoạt động tiếp tục ổn định, thu nhập của người dân trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định và chi tiêu cho đời sống theo đó cũng tăng lên đã làm cho doanh thu tổng mức bán lẻ hàng hóa và hoạt động của một số ngành như dịch vụ lưu trú, ăn uống, kinh doanh bất động sản, dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ... tăng so với cùng kỳ năm trước.
8.2 Hoạt động xuất nhập khẩu[4]
Xuất khẩu hàng hóa năm 2023 ước đạt 359,5 triệu USD tăng 12% so với cùng kỳ (320,8 triệu USD) và tăng 24% so với kế hoạch năm (290 triệu USD); xuất khẩu tăng so với cùng kỳ là do các doanh nghiệp xuất khẩu của tỉnh chủ động trong việc sản xuất, xuất khẩu đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu cao su; Cao su là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch xuất khẩu của địa phương: Năm 2023 xuất khẩu cao su tăng so với cùng kỳ; thị trường chính là Trung Quốc, nhu cầu tiêu dùng của thị trường 1,4 tỷ dân tiếp tục gia tăng dịp cuối năm, nhu cầu tiêu dùng lớn với nhiều nhóm hàng hóa nông sản từ trái cây, cao su, sắn,... Những yếu tố này sẽ tác động tốt đến hoạt động xuất khẩu; các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều giữ vững xuất khẩu sang thị trường truyền thống và mở rộng ra một số thị trường tiềm năng khác.
Cán cân thương mại được kiểm soát: Tỷ trọng giá trị nhập khẩu chiếm tỷ lệ thấp hơn nhiều so với xuất khẩu trong tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của địa phương (xuất khẩu chiếm tỷ lệ đến 98%, nhập khẩu chỉ chiếm 2% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu).
Kim ngạch nhập khẩu năm 2023 dự tính đạt 6,9 triệu USD tăng 4,5% so với thực hiện cùng kỳ năm 2022 (6,6 triệu USD) và đạt kế hoạch đề ra trong năm. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: Hóa chất, chất dẻo nguyên liệu.
Việc kiểm soát nhập khẩu hàng hóa: Hàng hóa nhập khẩu trên địa bàn tỉnh với số lượng không nhiều và ít về chủng loại. Với tính chất hàng hóa nhập khẩu không đa dạng về chủng loại nên việc kiểm soát nhập khẩu trên địa bàn tỉnh cũng không gặp nhiều khó khăn.
8.2. Vận tải
Tình hình giao thông, vận tải trên địa bàn tỉnh trong tháng Mười Hai duy trì được sự tăng trưởng và ổn định hơn so với cùng kỳ năm trước. Ước tính năm 2023, vận chuyển hành khách tăng 13,06%, luân chuyển hành khách tăng 14,11% so với cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hóa tăng 6,74%, luân chuyển hàng hóa tăng 7,36% so với cùng kỳ năm trước.
(1) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính tháng 12 năm 2023:
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính tháng 12 năm 2023 đạt 222.952 triệu đồng, tăng 1,65% so với tháng trước và tăng 19,29% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 70.388 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 41,36%; Vận chuyển ước đạt 951 nghìn lượt khách, tăng 4,76%; Luân chuyển ước đạt 122.299 nghìn lượt khách.km, tăng 5,58%.
- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 151.290 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 11,17%; Vận chuyển ước đạt 1.570 nghìn tấn, tăng 3,28%; Luân chuyển ước đạt 77.092 nghìn tấn.km, tăng 3,83%.
- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 1.274 triệu đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 24,9%.
Hoạt động vận chuyển hành khách tăng so với tháng trước và cùng kỳ năm trước là do trong tháng có kỳ nghỉ Lễ Noel và nghỉ Tết Dương lịch năm 2024 nên nhu cầu đi lại của người dân tăng.
Hoạt động vận chuyển hàng hóa tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ năm trước một mặt là do trong tháng là mùa khô và một số sản phẩm nông nghiệp vào mùa thu hoạch đại trà như cà phê, sắn,… nên hoạt động vận chuyển hàng hóa phục vụ ngành nông nghiệp tăng, đồng thời hoạt động vận chuyển hàng hóa chuẩn bị cho Tết Nguyên đán tăng.
(2) Kết quả hoạt động vận tải, kho bãi ước tính năm 2023:
Doanh thu vận tải, kho bãi ước tính năm 2023 đạt 2.654.519 triệu đồng, tăng 23,34% so với cùng kỳ năm trước, cụ thể như sau:
- Vận tải hành khách: Doanh thu ước đạt 810.902 triệu đồng, tăng 44,27%; Vận chuyển ước đạt 11.053 nghìn lượt khách, tăng 13,06%; Luân chuyển ước đạt 1.450.667 nghìn lượt khách.km, tăng 14,11%.
- Vận tải hàng hoá: Doanh thu ước đạt 1.829.201 triệu đồng, tăng 15,84%; Vận chuyển ước đạt 18.032 nghìn tấn, tăng 6,74%; Luân chuyển ước đạt 908.652 nghìn tấn.km, tăng 7,36%.
- Hoạt động kho bãi, hỗ trợ vận tải, doanh thu ước đạt 14.416 triệu đồng, tăng 30,83%.
9. Các vấn đề xã hội
9.1. Dân số, lao động và việc làm
a) Dân số, lao động và việc làm
Ước dân số trung bình năm 2023 tỉnh Kon Tum là 591.266 người.
Tổng số người từ 15 tuổi trở lên ước đến cuối năm là 405.334 người, trong đó nữ 200.478 người, chiếm 49,46%. Lực lượng lao động ước đến cuối năm có 333.428 người, trong đó lao động nữ 160.979 người, chiếm 48,28%; khu vực thành thị 102.762 người, chiếm 30,82%.
Trong tổng số lực lượng lao động trên toàn tỉnh, số lao động có việc làm là 330.794 người, chiếm 99,21% trong lực lượng lao động trên toàn tỉnh. Trong đó, lao động có việc làm ở khu vực nông thôn chiếm phần lớn, với 229.848 người chiếm 69,48% (do dân số ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 2/3 dân số trên toàn tỉnh).So sánh Lao động có việc làm/Lực lượng lao động giữa hai khu vực thành thị vànông thôn thì khu vực nông thôn tỷlệ lao động có việc làm cao hơn khu vực thành thị 1,41 điểm phần trăm (99,65% và 98,23%). Tỷ lệ này ở lao động có việc làm giữa nam và nữ chênh lệch không đáng kể 0,68 điểm phần trăm (99,54% và 98,86%).
Số người thất nghiệp ước tính đến cuối năm 2023 là 2.634 người, tỷ lệ thất nghiệp là 0,79% trong tổng số lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh.Trong đó: nữcó 1.834 người, chiếm tỷ lệ 69,63% trong tổng số người thất nghiệp. Khu vực thành thị có số người thất nghiệp tương đối cao 1.817 người, tỷ lệ thất nghiệp là 1,77%, khu vực nông thôn có tỷ lệ thất nghiệp là 0,35% (817 người).
Số người thiếu việc làm là 1.695 người, tỷ lệ thiếu việc làm là 0,51% trong tổng số lực lượng lao động, tăng 8,29% so với cùng kỳ năm trước, do số lao động tại các doanh nghiệp trở về lao động tại nơi cư trú cùng gia đình không đủ việc làm trong thời gian giãn việc, mất việc. Lao động thiếu việc làm tập trung nhiều đối với vùng nông thôn và chiếm phần lớn là 1.125 người, chiếm 66,36% trong tổng số, một phần do tính chất công việc lao động ở khu vực nông thôn hoạt động trong lĩnhvực nông nghiệp mang tính thời vụ, cho nên tình trạng thiếu việc làm luôn là vấn đề phổ biến ở khu vực nông thôn.
9.2. Tình hình đời sống dân cư
Trong năm 2023, với tinh thần trách nhiệm cao của các cấp, các ngành, sự đồng lòng, quyết tâm của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân, kinh tế - xã hội của tỉnh đạt được nhiều kết quả: Việc vui xuân đón Tết của Nhân dân diễn ra đầm ấm, vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm, không có trường hợp nào đói và không có Tết.
Từ ngày 01/7/2023, thực hiện tăng lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang lên mức 1,8 triệu đồng/tháng, tăng 20,8% so với mức lương cơ sở trước đây. Vì vậy, đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang được cải thiện hơn so với cùng kỳ năm trước.
Các hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục có xu hướng phục hồi tích cực, hoạt động thương mại, dịch vụ và du lịch phục hồi nhanh, tình hình dịch bệnh được kiểm soát; chất lượng khám, chữa bệnh được cải thiện; giảm nghèo chuyển biến tích cực; các chế độ chính sách an sinh xã hội đảm bảo ...; tăng trưởng cao so với cùng kỳ (GRDP tăng 7,32%) đã tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập ổn định cho công nhân, người lao động hưởng lương trên địa bàn tỉnh.
Tình hình sâu bệnh trên cây trồng, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm đã được các cấp, ngành chủ động theo dõi, phòng ngừa và khống chế, dập tắt kịp thời. Giá các mặt hàng nông sản chủ lực như cà phê, lúa, sắn ... tăng cao so với những năm trước. Tuy nhiên, tình hình thiên tai diễn biến phức tạp, giá cả một số mặt hàng vật tư nông nghiệp và chi phí đầu vào tại một số thời điểm tăng cao, gây ảnh hưởng cho việc đầu tư thâm canh sản xuất trồng trọt; nông nghiệp trên địa bàn tỉnh chưa phát huy được yếu tố lợi thế và gắn với công nghiệp chế biến, thị trường tiêu thụ; chưa hình thành nhiều các vùng sản xuất tập trung đối với một số loại cây ăn quả, dược liệu để tạo vùng nguyên liệu lớn. Trong năm 2023, tại khu vực huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum động đất xảy ra thường xuyên và liên tục, tuy nhiên cấp độ của các trận động đất này không gây rủi ro thiên tai.
Công tác đào tạo nghề tiếp tục được duy trì thường xuyên, đến nay đã đào tạo cho 6.975 lao động, giải quyết việc làm 7.053 lao động. Tính đến cuối năm 2023 có 75 lao động tham gia XKLĐ đã xuất cảnh đi làm việc tại nước ngoài, tăng 50 người so với cùng kỳ năm trước.
9.3 Tình hình thực hiện các chính sách an sinh xã hội
Các chế độ, chính sách bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được quan tâm triển khai đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, cụ thể:
Tiếp tục thực hiện chế độ chính sách cho gần 5.000 người có công và thân nhân; tặng 19.308 suất quà cho người có công, với kinh phí 5.637 triệu đồng; giải quyết chế độ điều dưỡng cho 1.988 người; thực hiện hỗ trợ nhà ở cho 27 hộ gia đình chính sách, người có công thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ khó khăn về nhà ở trên địa bàn tỉnh, tổng kinh phí hỗ trợ là 2.050,5 triệu đồng.
Hỗ trợ cho các đối tượng bảo trợ xã hội quy định tại các chương 2, 3, 4 và 5 của Nghị định 20/2021/NĐ-CP với kinh phí 594 triệu đồng.
Hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, hộ chính sách xã hội không trùng với các đối tượng tại Nghị định 20/2021/NĐ-CP từ ngân sách tỉnh trợ cấp xã hội cho 288 người, với kinh phí thực hiện 682 triệu đồng.
Cấp 276.517 thẻ BHYT miễn phí cho các đối tượng thụ hưởng, cụ thể: Người có công 2.958 thẻ, Bảo trợ xã hội 7.970 thẻ; Đối tượng nghèo 51.895, Trẻ em dưới 6 tuổi 71.650 thẻ, Người DTTS sống tại vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn 113.938 thẻ; Người sống tại vùng đặc biệt khó khăn 18.235 thẻ và các đối tượng còn lại 6.256 thẻ. Hỗ trợ gạo dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt năm 2023 là 275,55 tấn gạo cho 5.392 hộ với 18.370 nhân khẩu; trong đó, từ nguồn lực hỗ trợ kịp thời của Trung ương 181,515 tấn gạo cho 3.405 hộ với 12.101 nhân khẩu; từ nguồn lực UBND cấp huyện, thành phố tự cân đối hỗ trợ 94,035 tấn gạo cho 1.987 hộ với 6.269 nhân khẩu.
Hỗ trợ xây nhà ở cho 03 hộ có hoàn cảnh khó khăn bị thiên tai hỏa hoạn với số tiền 100 triệu đồng. Ngoài ra, đã tiến hành hỗ trợ các hoàn cảnh khó khăn, các trường hợp bị ảnh hưởng do mưa lũ, sạt lỡ … với số tiền hơn 450 triệu đồng.
9.4. Tình hình nổi bật về xã hội
Về y tế: Ngành Y tế đã tập trung triển khai kịp thời, hiệu quả công tác phòng, chống dịch bệnh, nhất là phòng, chống dịch bệnh nguy hiểm. Hoạt động tiêm chủng mở rộng được duy trì thường xuyên tại 100% xã, phường, thị trấn; Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng cao. Công tác kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm được triển khai tích cực, ghi nhận một số ca ngộ độc lẻ tẻ, không ghi nhận trường hợp tử vong do ngộ độc thực phẩm.
Về giáo dục: Năm học 2023-2024 đã huy động được 168.500 học sinh đến lớp. Các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học trước thềm năm học mới được chuẩn bị tốt. Chất lượng giáo dục ngày càng được cải thiện, nhất là vùng dân tộc thiểu số được củng cố và nâng cao. Kết quả xét công nhận tốt nghiệp Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023 tỉnh đạt tỷ lệ 98,78% (tăng 1,09% so với năm 2022). Đã đẩy mạnh tuyên tuyền phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS, THPT; chú trọng công tác hướng nghiệp đã góp phần nâng cao nhận thức về đào tạo nghề và kỹ năng nghề, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Tuy nhiên, một số cơ sở giáo dục chưa đồng bộ, tình trạng thiếu giáo viên dạy học các cấp vẫn còn xảy ra.
Về văn hóa: Các hoạt động văn hoá được tổ chức đảm bảo thiết thực, tạo không khí vui tươi trong Nhân dân[5]. Công tác khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa, truyền thống của các dân tộc thiểu số được triển khai tích cực. Các di tích lịch sử được bảo tồn và phát huy; công trình thủy lợi Đập Mùa Xuân, huyện Đăk Hà được xếp hạng di tích cấp tỉnh; Xe tăng T59 số hiệu 377 được công nhận là bảo vật quốc gia.
Về thể dục thể thao: Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được duy trì. Phong trào thể dục thể thao trong quần chúng Nhân dân tích cực triển khai, thể thao thành tích cao được chú trọng.
Tình hình trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh được đảm bảo, không phát sinh các vấn đề nổi cộm về môi trường ở địa phương. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội được thực hiện quyết liệt. Công tác đảm bảo ATGT và phòng cháy, chữa cháy được chỉ đạo thường xuyên. Tuy nhiên, TNGT so với cùng kỳ năm trước tăng cả 3 tiêu chí.
d) Tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương trong tháng 12/2023
Phạm tội về trật tự xã hội: Phát hiện 28 vụ (giảm 06 vụ so với tháng trước). Hậu quả, thiệt hại: 11 người bị thương; thiệt hại về tài sản khoảng 150 triệu đồng. Địa bàn: TP Kon Tum 17 vụ; Đăk Hà 02 vụ; Đăk Tô 02 vụ; Ia H’Drai 02 vụ; Đăk Ngọc Hồi 02 vụ; Sa Thầy 02 vụ; Kon Plong 01 vụ.
Phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng và chức vụ: Phát hiện 02 vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trên địa bàn huyện Kon Rẫy 01 vụ, IaH’Drai 01 vụ.
Phạm tội về môi trường, an toàn thực phẩm: phát hiện 01 vụ vị phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trên địa bàn huyện Ngọc Hồi.
Phạm tội về ma túy: Phát hiện 04 vụ (giảm 15 vụ so với tháng trước), cụ thể: Tàng trữ trái phép chất ma túy 03 vụ; Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy 01 vụ; Thu giữ: 2,492g ma túy tổng hợp. Địa bàn: TP Kon Tum 01 vụ; Đăk Hà 02 vụ; Ngọc Hồi 01 vụ.
Tình hình trật tự, an toàn giao thông: Xảy ra 13 vụ làm 13 người chết, 08 người bị thương ; hư hỏng 05 ô tô, 18 mô tô, ước tính khoảng 144,5 triệu đồng.
Tình hình chảy, nổ: trong tháng không xảy ra.
Tình hình sự cố, tai nạn: Xảy ra 01 vụ. Nguyên nhân: Tự tử, kết quả cứu được 01 người.
[1] Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày 02-12-2022; Nghị quyết số 78/NQ-HĐND ngày 09-12-2022
[2] Công văn số 2142/TCTK-TKQG ngày 25 tháng 11 năm 2023 của Tổng cục Thống kê về thông báo số liệu GRDP ước tính quý IV, cả năm 2023.
[3] Nguồn: Báo cáo NHNN chi nhánh tỉnh Kon Tum
[4] Nguồn: Báo cáo số 526/BC/SCT của Sở Công Thương tỉnh Kon Tum ngày 12/12/2023
[5] Tổ chức các hoạt động mừng Đảng, mừng xuân Quý Mão năm 2023, tổ chức Hội Báo xuân; hỗ trợ chương trình văn nghệ gây quỹ nhân dịp Tết Nguyên đán Xuân Quý Mão 2023, Lễ kỷ niệm 110 năm Ngày thành lập tỉnh Kon Tum (09/02/1913- 09/02/2023) và các hoạt động trong chuỗi sự kiện ...
Cục Thống kê tỉnh Kon Tum