Thứ hai, 00/00/2023
°

Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050: Truyền thống - Liên kết - Bứt phá

Ngày 08/05/2024 - 16:45:00 | 225 lượt xem
Xem cỡ chữ
Tương phản chữ
Đọc bài viết
Từ viết tắt

(MPI) - Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký ban hành Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 04/5/2024 là bản Quy hoạch vùng này có ý nghĩa quan trọng, với tư duy mới, tầm nhìn mới nhằm tăng tốc, bứt phá mạnh mẽ để phát huy nhanh, hiệu quả được các giá trị truyền thống kết hợp với khai thác các cơ hội mới, bắt kịp xu thế của thế giới thông qua việc tập trung xác định và giải quyết các vấn đề lớn, có tính liên ngành, liên vùng, liên tỉnh; mạnh dạn tái cơ cấu kinh tế, tổ chức lại không gian phát triển vùng và và khai thác, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng. Ảnh: MPI

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh 6 chữ Truyền thống - Liên kết - Bứt phá để thể hiện nội dung của Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo đó, về truyền thống, Bộ trưởng cho biết, vùng Đồng bằng sông Hồng có “quá nhiều” những giá trị truyền thống về mọi mặt là lợi thế lớn, nhưng cũng là thách thức lớn trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị đó, đặc biệt là thoát ra khỏi tư duy phát triển “cũ” có tính truyền thống, xác lập tư duy phát triển mới tạo ra động lực mới cho sự phát triển vùng. Phát triển vùng phải phát huy vai trò và khai thác hiệu quả các thế mạnh về địa chính trị, địa kinh tế, điều kiện tự nhiên và các giá trị văn hóa, lịch sử; các hành lang, vành đai kinh tế, cực tăng trưởng, trung tâm kinh tế, hệ thống đô thị; phải bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cả nước giai đoạn 2021-2030, Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, các chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực quốc gia có liên quan; bảo đảm sự tuân thủ, tính liên tục, kế thừa và sự phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia và các quy hoạch ngành quốc gia.

Đồng thời, phát triển và cơ cấu lại kinh tế vùng phải dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của vùng; phải phát huy hiệu quả các trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ, các trung tâm đổi mới sáng tạo hàng đầu quốc gia để chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng công nghiệp và dịch vụ hiện đại, nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, xanh, tuần hoàn, bảo đảm vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái dẫn đầu cả nước.

Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng cũng đã nhấn mạnh phát triển kinh tế hài hoà với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa, giá trị lịch sử, nhất là văn hóa đồng bằng Bắc Bộ. Coi văn hóa và các giá trị truyền thống là nguồn lực phát triển hướng tới nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị. Phát triển văn hóa, y tế, giáo dục - đào tạo bảo đảm chất lượng cao, hiện đại, tương đương với các quốc gia phát triển trong khu vực.

Về liên kết, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho rằng, liên kết vùng phải trở thành tư duy chủ đạo dẫn dắt sự phát triển toàn vùng và từng địa phương trong vùng. Nội dung về liên kết vùng trong Bản quy hoạch đã tập trung vào bốn nội dung. Thứ nhất, phát triển hạ tầng kết nối vùng, bao gồm cả kết nối song phương giữa các tỉnh, thành phố, ưu tiên gắn với các hành lang quan trọng của vùng; trong đó ưu tiên chuẩn bị và triển khai xây dựng mới các tuyến đường sắt tốc độ cao Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Lạng Sơn - Hà Nội; đồng bộ hóa từng bước các điểm đầu mối (hub) về giao thông như cụm cảng Hải Phòng - Quảng Ninh, các tuyến kết nối Thủ đô Hà Nội với các địa phương (các tuyến vành đai và các trục kết nối với các địa phương); phát triển đồng bộ hạ tầng số để tạo nền tảng thực hiện chuyển đổi số…

Thứ hai, xử lý các vấn đề môi trường, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm đất và bảo đảm an ninh nguồn nước liên tỉnh; chú trọng các giải pháp hiệu quả để ứng phó với diễn biến hạ thấp mực nước trên hệ thống sông của vùng và hồi sinh các dòng sông như sông Tô Lịch, sông Nhuệ, sông Đáy, Bắc Hưng Hải...

Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực và đổi mới sáng tạo, tăng cường phối hợp và liên kết trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực; chia sẻ, liên kết trong phát triển khoa học và công nghệ hướng vào giải quyết những vấn đề công nghệ đặt ra trong phát triển vùng; hình thành và tăng cương liên kết mạng lưới các trung tâm, cơ sở đổi mới sáng tạo.

Thứ tư, là hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng và liên kết vùng đủ mạnh, bảo đảm hiệu quả điều phối trong việc sử dụng nguồn lực nhà nước (như cho phép các địa phương được sử dụng ngân sách địa phương chủ động tham gia các hoạt động liên kết và đầu tư cho các dự án vùng, liên vùng; ngân sách cấp này được thực hiện nhiệm vụ chi của ngân sách cấp khác đối với các dự án vùng, liên vùng vì lợi ích chung của địa phương, vùng và cả nước); kiến tạo hệ sinh thái tốt để các doanh nghiệp, nhà đầu tư (là những chủ thể chính) đẩy mạnh và thực hiện liên kết trong các hoạt động sản xuất kinh doanh.

Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng được phê duyệt nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của tỉnh trong vùng và hạn chế các xung đột, triệt tiêu động lực của các địa phương trong mối quan hệ hữu cơ với nhau.

Về bứt phá, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, trong bối cảnh hiện nay, Quy hoạch vùng cần có sự bứt phá trong việc tạo dựng hệ sinh thái phát triển tốt, nói cách khác chính là thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm và các đột phá phát triển gắn liền với các đặc thù của vùng, phát huy được các giá trị truyền thống, song phải đổi mới mạnh mẽ, hướng đến việc chủ động kiến tạo phát triển. Theo đó xác định trọng tâm và đột phá phát triển chủ yếu, bao gồm:

Thứ nhất, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, kết nối nội vùng, liên vùng và quốc tế, nhất là khai thác hiệu quả mạng lưới giao thông kết nối Thủ đô Hà Nội và các cảng biển với các địa phương của vùng và liên vùng; hoàn thành dứt điểm các công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, hạ tầng số, hạ tầng đô thị.

Thứ hai, tập trung xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, hệ sinh thái khởi nghiệp. Hình thành các cụm liên kết ngành về đổi mới sáng tạo. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả phát triển các khu kinh tế ven biển, khu công nghệ cao, khu công nghiệp, khu thương mại tự do với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có sức cạnh tranh quốc tế và khu vực.

Thứ ba, tập trung bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị văn hóa của nền văn minh sông Hồng, hình thành các trung tâm, trục di sản Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hà Nội, Ninh Bình, đặc biệt là trục văn hóa sông Hồng trong tổng thể không gian văn hóa của vùng Bắc Bộ; phát triển các dịch vụ văn hóa gắn với phát triển du lịch; phát triển mạnh công nghiệp văn hóa.

Thứ tư, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tăng cường liên kết và hình thành các chuỗi đô thị, trong đó, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh gắn với phát triển vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ; chuỗi đô thị tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình gắn với phát triển kinh tế biển, liên kết chặt chẽ thông qua vành đai kinh tế ven biển.

Thứ năm, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng và liên kết vùng đủ mạnh, bảo đảm hiệu quả điều phối một số lĩnh vực như: Phát triển hạ tầng, các cụm liên kết ngành, xử lý các vấn đề môi trường, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm và đảm bảo an ninh nguồn nước.

Những nhiệm vụ trọng tâm và đột phá phát triển nêu trên là hết sức quan trọng để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển của vùng Đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn tới.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, toàn bộ Hồ sơ Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng được chuyển giao cho địa phương và thông tin công khai tại Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về quy hoạch - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Đồng bằng sông Hồng là địa bàn cốt lõi, có ý nghĩa chiến lược, quan trọng bậc nhất của cả nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Vùng được coi là cửa ngõ phía bắc của đất nước và ASEAN về kết nối phát triển kinh tế, thương mại; có hệ thống hạ tầng giao thông kết nối đồng bộ về cả đường bộ, đường biển, đường thủy, đường hàng không, đường sắt với ba tuyến hành lang kinh tế đi qua. Có Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia; trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ lớn nhất cả nước, có lịch sử phát triển hàng nghìn năm, văn hiến và anh hùng. Là vùng đất châu thổ giàu tiềm năng phát triển với nền văn hóa lâu đời, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn minh lúa nước cùng vô vàn những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Đồng thời, đây cũng là trung tâm hàng đầu về y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ với đội ngũ trí thức giỏi và đông đảo lực lượng lao động có chất lượng cao; là nơi đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực cho cả nước với nhiều trường đại học, trung tâm nghiên cứu có uy tín.

Trong thời gian qua, mặc dù phải đối mặt với các tác động tiêu cực đến từ bối cảnh phát triển trong nước và quốc tế như suy giảm kinh tế toàn cầu, ngân sách nhà nước hạn hẹp, biến đổi khí hậu… song với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự vào cuộc tích cực của các địa phương, sự hỗ trợ của các đối tác phát triển, Đồng bằng sông Hồng đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Tính đến năm 2023, vùng đồng bằng sông Hồng đóng góp gần 30,4% tổng GDP, khoảng 36% kim ngạch xuất khẩu và 38% thu ngân sách của cả nước. GRDP bình quân đầu người của vùng năm 2023 khoảng 131,9 triệu đồng, đứng thứ 2 cả nước. Vùng có hạ tầng phát triển bậc nhất, hệ thống đô thị và các cơ sở kinh tế tương đối mạnh, trong đó Thủ đô Hà Nội được xếp vào đô thị loại đặc biệt của cả nước. Nội vùng và xung quanh vùng đang được hình thành, thúc đẩy kết nối giữa vùng Đồng bằng sông Hồng với các vùng lân cận, tạo thành các trục hành lang kinh tế trọng điểm và tuyến thương mại liên vùng đồng bộ, hiện đại, ngang tầm quốc tế.

Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế của vùng thời gian qua chưa thực sự ổn định và chưa đồng đều giữa các địa phương trong vùng. Cơ cấu ngành nghề chưa hiện đại, nền tảng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thiếu sự vững chắc, trình độ công nghệ còn thấp, hiệu suất phát triển chưa cao, doanh nghiệp chủ yếu là quy mô nhỏ, khả năng cạnh tranh thấp. Tổ chức không gian, bố trí lãnh thổ còn bộc lộ nhiều bất hợp lý, đặc biệt sự quá tải tại các khu vực đô thị, nhất là ở nội đô Hà Nội, Hải Phòng. Diện tích đất tự nhiên nhỏ là một trong những hạn chế đối với sự phát triển và bố trí lại không gian phát triển của vùng Đồng bằng sông Hồng thời kỳ quy hoạch. Ảnh hưởng khách quan của biến đổi khí hậu, khai thác sử dụng tài nguyên với cường độ cao, thiếu bền vững, gây ô nhiễm môi trường, … cũng là những khó khăn thách thức vùng Đồng bằng sông Hồng đang phải đối mặt.

Xác định rõ quy hoạch phải đi trước một bước, tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, sát thực tế, khả thi, phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh sẵn có của các lĩnh vực, khu vực, địa phương và tháo gỡ, hóa giải những hạn chế, yếu kém, mâu thuẫn, thách thức, khó khăn, đồng thời tạo ra động lực mới, thu hút nguồn lực mới cho phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và các địa phương trong vùng  triển khai xây dựng Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 nghiêm túc, bài bản, công phu, khoa học và đúng quy định./.


Đánh giá bài viết

lượt đánh giá: , trung bình:

Tin liên quan

Tin khác